1

1Vào tháng tám năm thứ hai đời vua Đa-ri-út, tiên tri Xa-cha-ri (con Bê-rê-chi, cháu Y-đô) nhận được sứ điệp của Chúa Hằng Hữu như sau: 2“Chúa Hằng Hữu giận tổ tiên các ngươi lắm. 3Nhưng nếu các ngươi quay về với Ta, Ta sẽ trở lại cùng các ngươi. 4Đừng như tổ tiên các ngươi, vì các tiên tri thời trước kêu gào, bảo họ bỏ đường tà ác, nhưng họ nào có nghe. 5Tổ tiên các ngươi cũng như các tiên tri thời ấy đều đã qua đời cả. 6Tuy nhiên lời Ta, luật lệ Ta truyền cho các tiên tri, cuối cùng đã chinh phục lòng tổ tiên các ngươi. Họ ăn năn và nói: "Chúa Hằng Hữu đã xử chúng tôi đúng như Ngài bảo trước, trừng phạt những điều ác chúng tôi làm, đường tà chúng tôi theo."
7Ngày hai mươi bốn tháng mười một (tháng Sê-bát) năm thứ hai đời vua Đa-ri-út, tiên tri Xa-cha-ri (con Bê-rê-chi, cháu Y-đô) lại nhận được sứ điệp của Chúa Hằng Hữu. Xa-cha-ri thuật lại như sau:
8“Đêm ấy, tôi thấy một người cưỡi ngựa hồng đứng giữa đám cây sim trong một thung lũng hẹp. Đứng sau người ấy có nhiều ngựa hồng, ngựa nâu và ngựa trắng, 9Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện với tôi: ‘Xin Chúa cho tôi biết ý nghĩa?' Thiên sứ đáp: Tôi sẽ cho ông biết.' 10,11Rồi người đứng giữa đám cây sim tức thiên sứ của Chúa Hằng Hữu lên tiếng đáp lời tôi: 'Chúa Hằng Hữu sai những người này đi tuần tra địa cầu.’ Những người cưỡi ngựa báo cáo với thiên sứ của Chúa Hằng Hữu: ’Chúng tôi đã tuần tra khắp địa cầu, mọi nơi đều bình an.' 12Nghe thế, thiên sứ của Chúa Hằng Hữu cầu nguyện: 'Lạy Chúa toàn năng, bảy mươi năm qua, cơn giận của Chúa đã trừng phạt Giê-ru-sa-lem và các thành Giu-đa. Đến bao giờ Chúa mới thương xót các thành ấy?' 13Chúa Hằng Hữu dùng lời từ tốn an ủi thiên sứ. 14Thiên sứ bảo tôi: 'Rao lên những lời này: Chúa vạn quân phán: Khi thấy hoàn cảnh của Giê-ru-sa-lem và Si-ôn, Ta giận lắm. 15Ta giận những dân ngoại đạo sống an ổn; vì trong khi Ta chỉ hơi giận dân Ta, dân ngoại đạo đã ra tay quá đáng. 16Cho nên, Chúa Hằng Hữu phán: Ta sẽ trở lại với Giê-ru-sa-lem trong tình thương xót, Đền thờ sẽ được xây lại, thành Giê-ru-sa-lem cũng vậy.
17'Hãy rao tiếp như sau: Chúa vạn quân phán: Các thành của dân Ta sẽ lại thịnh vượng như xưa, Chúa Hằng Hữu sẽ vỗ về Si-ôn, vì một lần nữa, Ngài chọn Giê-ru-sa-lem."'
18Tôi nhìn lên, thấy có bốn cái sừng. 19Tôi hỏi thiên sứ đang nói chuyện vói tôi: "Những sừng ấy là gì?" Thiên sứ đáp: "Đó là những sừng đã làm cho Giu-đa, Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem tan tác." 20Chúa Hằng Hữu cho tôi thấy bốn người thợ rèn. 21Tôi hỏi: "Những người này đến làm gì?" Thiên sứ đáp: "Họ đến để đánh các sừng đã làm cho Giu-đa tan tác không ngóc đầu lên được. Họ sẽ ném sừng của các nước ngoại đạo ấy xuống đất."

1

Lĕ Nau Tâm Saơ

Nau Kuăl Ăn Sĭt Ma Yêhôva

1Khay pham năm tal bar Y-Darius chiă uănh, Yêhôva ngơi ma kôranh nơm mbơh lor Y-Sakari, kon bu klâu Y-Bêrêkia, sau Y-Idô, lah: 2Yêhôva nuih ngăn ma chô-che khân may. 3Pôri may lah hom ma khân păng: Pô aơ nau Yêhôva ma phung tahan lah: Plơ̆ sĭt hom ma gâp, Yêhôva ma phung tahan lah, ri mơ gâp mra plơ̆ sĭt ma khân may. Yêhôva ma phung tahan lah.
4Lơi ta ƀư nâm bu chô che khân may, phung kôranh nơm mbơh lor kăl e hŏ kuăl jêh khân păng, lah: Yêhôva ma phung tahan lah pô aơ, chalơi hom trong mhĭk hêh ri nau mhĭk khân may ƀư; ƀiălah khân păng mâu iăt ôh, mâu lĕ ŭch tông ma gâp, Yêhôva lah. 5Ta ntŭk chô che khân may gŭ? jêh ri phung kôranh nơm mbơh lor geh nau rêh n'ho ro lĕ? 6Ƀiălah nau gâp ngơi jêh ri nau vay gâp hŏ ntăm jêh ma phung oh mon gâp jêng phung kôranh nơm mbơh lor, tât lĕ nau nây ma chô che khân may? Pôri khân păng rmal nau tih jêh ri lah: Lĕ rngôch nau Yêhôva ma phung tahan hŏ mĭn jêh ma he tĭng nâm trong jêh ri kan he ƀư, tâm ban pô nây lĕ păng hŏ ƀư ma he.

Nau Kôranh Nơm Mbơh Lor Tâm Saơ Seh

7Ta nar bar jê̆t ma puăn, khay jê̆t ma nguay, jêng khay Sêbat, tâm năm tal bar Y-Darius, chiă uănh, Yêhôva ngơi ma kôranh nơm mbơh lor Y-Sakari, kon bu klâu Y-Bêrêkia, Sau Y-Idô pô aơ: 8Gâp saơ dôl bri măng: aơ, geh du huê ncho sah chăng dâk tâm rlô tơm si mirtơ tâm rlŭng, jêh ri pakơi păng geh phung seh chăng, seh guh, seh nglang. 9Gâp lah: Hơi kôranh gâp, moh bu ntơ seh nây? pôri tông păr uch ngơi ma gâp, Gâp mra tâm mpơl moh khân păng jêng. 10Pô nây bunuyh dâk tâm rlô tơm si mirtơ plơ̆ lah: Aơ jêng phung nơm Yêhôva prơh hăn nsong chop uănh neh ntu. 11Khân păng plơ̆ lah ma tông păr uch dâk tâm rlô tơm si mirtơ pô aơ: Hên hŏ hăn nsong uănh jêh neh ntu aơ, lĕ rngôch neh ntu ăt gŭ răk klăk jêh ri đăp mpăn.
12Rnôk nây tông păr ueh bơh Yêhôva plơ̆ lah: Hơi Yêhôva ma phung tahan! Ndah nâm jŏ may yô̆ klâng ma ƀon Yêrusalem jêh ri lĕ ƀon tâm n'gor Yuda, jêng ƀon Păng hŏ ji nuih jêh ri tâm rdâng đah păng tâm pơh jê̆t năm aƀaơ ri? 13Yêhôva plơ̆ sĭt lah ma nau ngơi ueh, nau ngơi bonh leng ma tông păr ueh nơm ngơi đah gâp.

14Pô nây, tông păr ueh dôl ngơi ndrel gâp, lah pô aơ: Mbơh hom, jêh ri lah: Yêhôva ma phung tahan lah, gâp bêng ma nau ntôn ngăn ma ƀon Yêrusalem jêh ri yôk Siôn; 15Jêh ri gâp nuih ngăn phung ntil mpôl bunuyh gŭ đăp mpăn; yorlah gâp bơi ma ji nuih, jêh ri khân păng lơ ntop nau rêh ni.
16Yor nây Yêhôva lah: Gâp plơ yô̆ đô̆ng ma ƀon Yêrusalem; yorlah ngih brah gâp mra ndâk tâm trôm păng, rse bu mra veh nthăng tâm ƀon Yêrusalem, Yêhôva ma phung tahan lah. 17Mbơh tay đŏng: Yêhôva ma phung tahan lah: Lĕ rngôch ƀon toyh gâp mra hôm mbêng ma nau chăt jêng, Yêhôva hôm e bonh yôk Siôn jêh ri săch đŏng ƀon Yêrusalem. 18Pônây, gâp n'gơr măt, jêh ri saơ, aơ, geh puăn mlâm nke. 19Gâp lah ma tông păr ueh dôl ngơi đah gâp, lah: Moh ndơ nây? Păng plơ lah: Nây jêng nke hŏ ƀư rai pru pra jêh phung Yuda, phung Israêl, jêh ri phung Yêrusalem.
20Jêh ri Yêhôva mpơl ma gâp saơ puăn nuyh chiăr; 21Pôri gâp ôp: Phung aơ văch tât moh nau ƀư? Păng plơ̆ lah: Nây jêng nke hŏ ƀư rai ăn phung Yuda pru pra, kŏ tât mâu geh nuyh n'gơr bôk ôh; ƀiălah phung hŏ văch tât aơ gay ƀư nkrit khân păng, jêh ri gay klô̆p lơi nke phung mpôl băl bunuyh bri bu hŏ tâm rdâng đah n'gor Yuda gay ăn khân ôbăl chah rai pru pra.