Klei Hưn Mdah

Hdruôm hră Tal Sa Bruă Mtao lŏ čuê Hdruôm hră Y-Samuel čih klei yăl dliê klei kiă kriê tui si klei bhiăn phung kahan. Hdruôm hră anei dưi bi mbha mâo tlâo kdrêč msĕ snei: (1) Klei Y-Salômôn čuê jing mtao kiă kriê čar Yuđa leh anăn čar Israel, leh anăn klei Y-Đawit djiê. (2) Ênuk mtao Y-Salômôn kiă kriê leh anăn klei tŭ dưn dưi mâo, boh nik bruă klei rŭ mdơ̆ng mjing sang yang ti ƀuôn Yêrusalem. (3) Klei bi mbha lăn čar: ƀuôn ala mtao Israel tĭng nah Dưr leh anăn ƀuôn ala mtao Yuđa tĭng nah Dhŭng; leh anăn klei yăl dliê klei kiă kriê kơ phung mtao truh kơ ênuk tal IX Êlâo kơ Krist.
 Hlăm hdruôm hră I leh anăn II Bruă Mtao Grăp čô mtao mâo klei ksiêm tui si klei sĭt suôr digơ̆ hŏng Aê Diê; leh anăn lăn čar dưi mâo klei mdrŏng sah hing ang amâodah hơăi snăn tui si klei jing anei; ƀiădah klei amâo mâo gưt asăp leh anăn klei kkuh kơ rup yang srăng atăt kơ klei rai tuč. Phung mtao Israel tĭng nah Dưr amâo mâo klei dưi ôh, êjai anăn phung mtao Yuđa tĭng nah Dhŭng mâo klei bi lŭk, mâo phung mtao dưi leh anăn mâo phung mtao amâo mâo dưi ôh.
 Klei kñăm hĭn hlăm hdruôm hră I Bruă Mtao anăn jing kơ phung khua pô hưn êlâo, phung blŭ hưn jhŏng ktang Aê Diê, jhŏng ƀuah phung ƀuôn sang amâo mâo dưi kkuh mpŭ kơ rup yang leh anăn êgao asăp klei Aê Diê mtă. Boh nik ñu bruă khua pô hưn êlâo Y-Êli leh anăn jih klei ñu bi kdơ̆ng hŏng phung khua ngă yang, yang Baal (kdrêč 18).

Jar

Kdrêč knhal tuč klei Y-Đawit kiă kriê (1:1–2:12)
Klei Y-Salômôn jing mtao leh anăn bi kjăp ƀuôn ala mtao (2:13-46)
Ênuk klei Y-Salômôn kiă kriê (3:1–4:34)
Thŭn tal êlâo (3:1–4:34)
Klei rŭ mdơ̆ng mjing sang yang (5:1–8:66)
Thŭn knhal tuč (9:1–11:43)
Ƀuôn ala mtao bi kah mbha (12:1–22:53)
Klei phung găp djuê tĭng nah Dưr kgŭ ngă klei bi kdơ̆ng (12:1–14:20)
Phung mtao Yuđa leh anăn Israel (14:21–16:34)
Klei hưn êlâo (17:1–19:21)
Mtao Y-Ahap phung Israel (20:1–22:40)
Mtao Y-Jôsaphat phung Yuđa leh anăn mtao Y-Ahasia phung Israel (22:41-53)

Lời giới thiệu

Sách Thứ Nhất về Các Vua tiếp nối các sách Sa-mu-ên ghi lại lịch sử của chế độ quân chủ Y-sơ-ra-ên. Sách này có thể chia làm ba phần như sau: (1) Sự nối ngôi của Sa-lô-môn làm vua trên cả Giu-đa và Y-sơ-ra-ên, và sự qua đời của vua Đa-vít. (2) Triều đại và những thành tựu của vua Sa-lô-môn, đặc biệt là công trình xây dựng đền thờ tại Giê-ru-sa-lem. (3) Sự chia đôi đất nước: vương quốc Y-sơ-ra-ên phía bắc và vương quốc Giu-đa phía nam; và lịch sử trị vì của các vua cho đến giữa thế kỷ IX TCN.
 Trong sách I và II Các Vua mỗi vị vua đều được xét dựa trên lòng trung thành của họ đối với Đức Chúa Trời; đồng thời đất nước có đạt được thành công thịnh vượng hay không cũng tùy thuộc vào yếu tố này; trái lại, sự bất tuân và thờ thần tượng sẽ dẫn đến thảm họa. Các vua ở vương quốc phía bắc thì tất cả đều thất bại, trong khi các vua của vương quốc Giu-đa phía nam thì lẫn lộn, có vua thành công và có vua thất bại.
 Đặc điểm nổi bật trong sách I Các Vua là các nhà tiên tri, những phát ngôn nhân can đảm của Đức Chúa Trời, đã cảnh cáo dân chúng không được thờ thần tượng và bất vâng phục Chúa. Đặc biệt là chức vụ của tiên tri Ê-li và hành động chống lại các thầy tế lễ thần Ba-anh của ông (chương 18).

Bố cục

Phần cuối của triều đại vua Đa-vít (1:1 – 2:12)
Sa-lô-môn nối ngôi và củng cố vương quyền (2:13-46)
Triều đại của vua Sa-lô-môn (3:1 – 4:34)
Những năm đầu (3:1 – 4:34)
Sự xây cất Đền Thờ (5:1 – 8:66)
Những năm sau cùng (9:1 – 11:43)
Vương quốc bị phân chia (12:1 – 22:53)
Cuộc nổi loạn của các chi tộc phía bắc (12:1 – 14:20)
Các vua của Giu-đa và Y-sơ-ra-ên (14:21 – 16:34)
Tiên tri Ê-li (17:1 – 19:21)
Vua A-háp của Y-sơ-ra-ên (20:1 – 22:40)
Vua Giô-sa-phát của Giu-đa và vua A-cha-xia của Y-sơ-ra-ên (22:41-53)