5

1“Tơdah sa čô ngă soh kyuadah jing arăng mtă brei hưn, leh anăn ñu jing pô hưn, ƀiădah amâo blŭ ôh ya ñu ƀuh amâodah thâo, ñu srăng klam klei soh ñu pô. 2Tơdah sa čô amâo yŏng thâo ôh tăm ruêh mnơ̆ng čhŏ thâodah asei mlei djiê sa drei hlô dliê, amâodah sa drei mnơ̆ng rông, amâodah sa drei mnơ̆ng êbat ban, pô anăn jing čhŏ leh, ñu srăng jing soh yơh. 3Tơdah ñu ruêh mnơ̆ng čhŏ mơ̆ng mnuih, amâo yŏng thâo ôh, thâodah ya mnơ̆ng amâo doh bi čhŏ leh ñu, tơdah klei anăn bi êdah kơ ñu, ñu srăng jing soh. 4Tơdah sa čô blŭ hŏng kƀông ñu ruăt kat asei čiăng ngă klei jhat amâodah klei jăk, ya mta klei ruăt kat asei arăng khăng ngă, leh anăn ñu amâo thâo ôh, tơdah klei anăn bi êdah kơ ñu, ñu srăng jing soh. 5Tơdah sa čô jing soh hŏng sa mta klei anei, brei ñu hưn klei soh ñu ngă leh, 6leh anăn brei ñu ba mnơ̆ng myơr kơ klei gao klei bhiăn kơ Yêhôwa kyua klei soh ñu ngă leh, sa drei ana biăp amâodah bê, jing mnơ̆ng myơr kyua klei soh. Leh anăn khua ngă yang srăng ngă klei bi doh klei soh ñu.
7Tơdah ñu amâo dưi mâo sa drei êđai biăp, snăn brei ñu djă ba dua drei mgăm amâodah dua drei êđai ktrâo jing mnơ̆ng myơr kơ klei gao klei bhiăn kơ Yêhôwa kyua klei soh ñu ngă leh, sa drei pioh kơ mnơ̆ng myơr kyua klei soh, leh anăn sa drei mkăn pioh kơ mnơ̆ng myơr čuh. 8Brei ñu djă ba digơ̆ kơ khua ngă yang. Khua ngă yang srăng myơr êlâo hĭn mnơ̆ng myơr kyua klei soh. Ñu srăng wit kkuê gơ̆, ƀiădah amâo srăng bi tloh boh kŏ gơ̆ ôh. 9Leh anăn ñu srăng hƀrah đa đa êrah mnơ̆ng myơr kyua klei soh ti djiêu knưl, leh anăn êrah adôk ñu srăng tuh ti jơ̆ng knưl; gơ̆ jing mnơ̆ng myơr kyua klei soh. 10Leh anăn ñu srăng myơr mnơ̆ng tal dua jing mnơ̆ng myơr čuh tui si klei bhiăn; leh anăn khua ngă yang srăng ngă klei bi doh klei soh pô anăn ngă leh, leh anăn gơ̆ srăng mâo klei pap brei.
11Tơdah ñu amâo dưi mâo dua drei mgăm amâodah dua drei êđai ktrâo ôh, brei ñu djă ba mnơ̆ng myơr kyua klei soh ñu ngă leh sa kdrêč hlăm pluh êphah kpŭng ƀhĭ jing mnơ̆ng myơr kyua klei soh. Đăm brei ñu dưm êa boh ôliwơ ti dlông gơ̆ ôh amâodah dưm mnơ̆ng ƀâo mngưi, kyuadah gơ̆ jing mnơ̆ng myơr kyua klei soh. 12Brei ñu djă ba gơ̆ kơ khua ngă yang, leh anăn khua ngă yang srăng mă sa kpăt dŏ anăn jing kdrêč bi hdơr leh anăn čuh dŏ anăn ti knưl ti dlông mnơ̆ng myơr brei pui ƀơ̆ng kơ Yêhôwa. Gơ̆ jing mnơ̆ng myơr kyua klei soh. 13Snăn khua ngă yang srăng ngă klei bi doh klei soh kơ pô ngă soh leh hlăm sa mta mnơ̆ng anei, leh anăn gơ̆ srăng mâo klei pap brei. Ya mnơ̆ng adôk srăng pioh kơ khua ngă yang, msĕ si hŏng mnơ̆ng myơr kpŭng ƀhĭ.”

Mnơ̆ng Myơr kyua Klei Gao Klei Bhiăn

14Yêhôwa lač kơ Y-Môis, 15“Tơdah sa čô amâo dôk sĭt suôr ôh tăm ngă soh hŏng klei amâo čŏng čiăng hlăm sa mta mnơ̆ng pioh kơ Yêhôwa, brei ñu đoh ba sa drei biăp knô amâo mâo anôk jhat ôh jing mnơ̆ng myơr kyua klei gao klei bhiăn kơ Yêhôwa, ih tĭng hŏng sêkel prăk tui si sêkel prăk adŭ doh jăk; jing mnơ̆ng myơr kyua klei gao klei bhiăn. 16Msĕ mơh brei gơ̆ lŏ bi wĭt kyua klei ngă amâo djŏ hŏng mnơ̆ng doh jăk, leh anăn srăng thiăm sa kdrêč hlăm êma, leh anăn brei kơ khua ngă yang. Leh anăn khua ngă yang srăng ngă klei bi doh klei soh gơ̆ hŏng biăp knô jing mnơ̆ng myơr kyua klei gao klei bhiăn, leh anăn gơ̆ srăng mâo klei pap brei.
17Tơdah sa čô ngă soh êjai ngă sa klei Yêhôwa mtă leh amâo brei ngă ôh, wăt tơdah ñu amâo thâo ôh klei anăn, ƀiădah ñu jing soh leh, leh anăn srăng klam klei soh ñu pô. 18Brei ñu đoh ba kơ khua ngă yang sa drei biăp knô amâo mâo anôk jhat ôh mơ̆ng phung biăp, ih tĭng leh ênoh tui si ênoh mnơ̆ng myơr kyua klei gao klei bhiăn, leh anăn khua ngă yang srăng ngă klei bi doh klei soh gơ̆ ngă hŏng klei amâo čŏng čiăng, leh anăn gơ̆ srăng mâo klei pap brei. 19Anăn jing mnơ̆ng myơr kyua klei gao klei bhiăn gơ̆ jing soh leh ti anăp Yêhôwa.”

5

Các trường hợp khác cần dâng tế lễ chuộc tội

1“Khi một người phạm tội vì không chịu nói ra một việc mà mình đã thấy hoặc biết, mặc dù được yêu cầu tuyên thệ làm nhân chứng cho việc ấy, thì người ấy phải chịu hình phạt. 2Khi một người chạm đến một vật ô uế như xác của một thú rừng không tinh sạch, hoặc xác của một gia súc không tinh sạch, hoặc xác của một loài sâu bọ không tinh sạch, dù không biết đi nữa, thì người ấy vẫn bị ô uế và mắc tội. 3Hoặc người ấy chạm đến cái gì đó không tinh sạch của loài người, bất kể bị ô uế cách nào và dù không biết đi nữa, thì cũng sẽ mắc tội. 4Khi một người vô tình thề sẽ làm điều gì đó xấu hay tốt, thề thốt cách vô ý thức bất cứ việc gì, về sau mới nhận ra, thì người ấy sẽ mắc tội về một trong các điều đó.
5Vậy người nào mắc tội về một trong các điều trên thì phải xưng nhận tội mình đã phạm, 6và phải mang lễ vật đền tội dâng lên Đức Giê-hô-va là một chiên cái hoặc một con dê cái từ bầy súc vật để làm tế lễ chuộc tội. Thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người ấy.
7Nhưng nếu người ấy không đủ khả năng dâng một con chiên cái hay một con dê cái, thì để đền tội mình đã phạm, người ấy phải dâng lên Đức Giê-hô-va một cặp chim gáy hay là một cặp bồ câu con: một con dùng làm tế lễ chuộc tội, một con dùng làm tế lễ thiêu. 8Người ấy sẽ đem cặp chim đó đến thầy tế lễ. Trước hết, thầy tế lễ phải dâng con chim làm tế lễ chuộc tội. Ông sẽ vặn cổ nó nhưng không để cho đầu con chim đứt lìa ra, 9rồi sẽ rảy một phần máu của sinh tế chuộc tội trên một cạnh của bàn thờ, phần máu còn lại thì được vắt dưới chân bàn thờ. Đó là tế lễ chuộc tội. 10Còn con chim thứ hai, thầy tế lễ dâng làm một tế lễ thiêu như luật định. Như vậy, thầy tế lễ sẽ vì tội người đó đã phạm mà làm lễ chuộc tội và người đó sẽ được tha thứ.
11Nếu người ấy không có sẵn một cặp chim gáy hay cặp bồ câu con, thì người ấy phải vì tội đã phạm mà đem một ký bột lúa mì làm tế lễ chuộc tội; không nên chế dầu và cũng không để nhũ hương lên trên bột ấy, vì đó là một tế lễ chuộc tội. 12Người ấy sẽ đem bột đó đến thầy tế lễ; thầy tế lễ sẽ bốc một nắm bột đem thiêu trên bàn thờ, cùng với các lễ vật dùng lửa dâng lên Đức Giê-hô-va. Nắm bột đó nhắc nhở rằng tất cả bột thuộc về Đức Giê-hô-va. Đó là một tế lễ chuộc tội. 13Như vậy, thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc tội cho người ấy về tội mà người ấy đã phạm vào một trong những điều trên, và người ấy sẽ được tha tội. Phần bột còn lại sẽ thuộc về thầy tế lễ như trong tế lễ chay vậy.”
14Đức Giê-hô-va lại phán dặn Môi-se rằng: 15“Khi có một người không trung tín, vô tình phạm lỗi vì không dâng lên Đức Giê-hô-va những vật thuộc về Ngài, thì người ấy phải vì lỗi mình đã phạm mà dâng lên Đức Giê-hô-va một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy, đánh giá bằng siếc-lơ bạc theo siếc-lơ chuẩn của Nơi Thánh. Đó là tế lễ chuộc lỗi. 16Người ấy phải bồi thường lại vật thánh và cộng thêm một phần năm giá trị của vật thánh mà mình đã phạm, rồi giao vật đó cho thầy tế lễ. Thầy tế lễ sẽ dùng con chiên đực làm tế lễ chuộc lỗi để chuộc tội cho người ấy, và người ấy sẽ được tha thứ.
17Khi một người vô tình phạm một trong những điều răn của Đức Giê-hô-va và làm điều không được phép làm thì người ấy sẽ mắc tội và phải chịu hình phạt. 18Người ấy phải đem đến thầy tế lễ một con chiên đực không tì vết, bắt từ trong bầy, theo giá đã định cho tế lễ chuộc lỗi. Thầy tế lễ sẽ làm lễ chuộc lỗi cho người ấy về lầm lỗi mà người ấy vô ý phạm, và người ấy sẽ được tha thứ. 19Đó là tế lễ chuộc lỗi vì người ấy đã có lỗi với Đức Giê-hô-va.”