8

1Yawmsaub has tas, “Lub swjhawm ntawd tej vaajntxwv huv Yuta tej pob txhaa, hab Yuta cov thawj tej pob txhaa, cov pov thawj tej pob txhaa hab cov xwbfwb cev Vaajtswv lug tej pob txhaa, hab cov tuabneeg huv Yeluxalee tej pob txhaa yuav raug muab rhu huv tej qhov ntxaa lug, 2hab luas yuav muab ua rw quas sua cuab nub cuab hli hab tej nub qub sau nruab ntug huvsw, yog tej kws puab nyam hab puab teev tam, yog tej kws puab moog lawv hab nrhav hab pe hawm. Yuav tsw muaj leejtwg muab tej pob txhaa hov sau ua ke lossws muab faus, yuav nyob sau npoo aav yaam le tej quav tsaj txhu. 3Tsev tuabneeg phem nuav txhua tug kws tseed tshuav nyob rua huv txhua lub chaw kws kuv lawv puab moog hov yuav nyam tuag heev dua le nyam caj sa nyob.” Yawmsaub kws muaj fwjchim luj kawg nkaus has le nuav.

Kev txhum hab kev rau txem

  4“Koj ca le has rua puab tas,
   ‘Yawmsaub has le nuav tas,
   Thaus leejtwg qaug nwg txawm tsw sawv lug le lov?
  Yog leejtwg yuam kev lawm
   nwg yuav tsw rov lug le lov?
  5Ua le caag haiv tuabneeg nuav kws yog Yeluxalee
   tswv ntawm kuv lawm tsw rov lug ib txhws le?
  Puab tsw tso tej kev daag ntxag tseg,
   puab tsw yeem rov qaab lug.
  6Kuv tig ntsej ncuv noog,
   tassws puab has tsw tseeb.
  Tsw muaj ib tug yuav ntxeev dua sab
   ntawm nwg txujkev phem es yuav has tas,
   “Kuv tau ua daabtsw lawm?”
  Txhua tug nyag yuam kev taug nyag txuj lawm,
   ib yaam nkaus le tug neeg dha too hauv quas li rua huv tshaav rog.
  7Txawm yog daav npoj yaa sau ntuj
   los tseed paub caij paub nyoog,
   txawm yog nquab taug hab luv hab us dej dawb
  los tseed tuaj lawv le puab lub caij lub nyoog.
   Tassws kuv haiv tuabneeg tsw paub tej kws Yawmsaub qha.

  8“ ‘Mej yuav has tau le caag tas,
   “Peb muaj tswvyim hab peb muaj Yawmsaub txuj kevcai”?
  Tassws, saib maj, cov tub sau ntawv kws tsw ncaaj txhais teg
   tub muab txuj kevcai sau ntxeev ua lug daag lawm.
  9Cov tuabneeg muaj tswvyim yuav raug txaaj muag,
   puab yuav poob sab nthaav
   hab raug muab nteg coj moog.
  Puab tsw leeg yuav Yawmsaub tej lug,
   es puab muaj tug tswvyim twg?
  10Vem le nuav kuv yuav muab puab tej quaspuj rua lwm tug yuav,
   hab muab puab tej teb rua cov kws tuaj txeeb tau,
  tsua qhov taag nrho tej nyuas miv tuabneeg
   moog txug tug kws ua luj kawg
  los txhua tug ua lub sab hlub
   xaav tau tej kws lug ntawm kev ua tsw ncaaj,
  tsw has cov xwbfwb cev Vaajtswv lug hab cov pov thawj
   los txhua tug kuj daag ntxag huvsw.
  11Puab tau khu kuv haiv tuabneeg lub kav txhaab luj
   ib qho nyuas miv miv xwb,
  puab has tas, “Muaj kev thaaj yeeb, muaj kev thaaj yeeb,”
   tassws tub tsw muaj hlo le.
  12Thaus puab ua tej kws qas vuab tsuab
   puab txaaj muag lov?
  Puab tsw paub txaaj muag le lauj!
   Tub tsw ntaiv puab lub plhu le.
  Vem le ntawd puab yuav qaug
   rua huv plawv cov kws tub qaug taag lawm.
  Thaus kuv rau txem rua puab, puab yuav puam tsuaj.
   Yawmsaub has le nuav ntaag.
  13Yawmsaub has tas,
   Thaus kuv yuav qaws puab, kuj pum tas
  tsob txwv maab tsw muaj txwv
   hab tsob txwv cua tsw muaj txwv.
  Txawm yog cov nplooj kuj ntsws qhuav taag lawm,
   hab tej kws kuv tub pub rua puab kuj pluj taag lawm.’ ”

  14“Ua le caag peb nyob tuabywv?
   Peb ca le sau zog ua ke lug,
  peb ca le moog rua huv tej moos kws muaj ntsaa loog ruaj khov,
   hab puam tsuaj taag rua hov ntawd,
  tsua qhov Yawmsaub kws yog peb tug Vaajtswv
   tub npaaj ca rua peb puam tsuaj
  hab tub muab dej muaj taug rua peb haus,
   vem yog peb tau ua txhum rua Yawmsaub.
  15Peb vaam quas ntsoov yuav tau kev thaaj yeeb,
   tassws tsw tau ib qho zoo hlo le,
  peb vaam quas ntsoov lub swjhawm kws khu kuas mob zoo,
   tassws tsuas yog ntswb txujkev txhawj kev ntshai xwb.
  16Nov yeeb ncuab tej neeg tshuab paa huv lub moos Ntaaj tuaj,
   lub tebchaws kuj tseeg quas nkawg
  vem yog nov puab tej txwv neeg lub suab hee.
   Puab tuaj muab lub tebchaws
   hab txhua yaam kws nyob huv noj nqog taag,
  tsw has lub nroog hab tej tuabneeg
   kws nyob huv huvsw.”
  17“Saib maj, kuv saamswm tso ib co naab muaj taug
   lug rua huv plawv mej,
  yog tej naab muaj taug
   kws ua khawv koob rua los tsw seej le
  mas tej naab hov yuav tum mej.”
   Yawmsaub has le nuav ntaag.

Yelemi quaj txug Yeluxalee hab Yuta

  18Kuv txujkev quaj ntsuag luj heev khu tsw tau le,d
   kuv lub sab mob heev.
  19Ca le noog kuv cov tuabneeg tug ntxhais lub suab quaj
   thoob plhawv lub tebchaws txhua qhov has tas,
  “Yawmsaub tsw nyob huv Xi‑oo lov?
   Xi‑oo tug vaajntxwv tsw nyob rua huv lov?”
  Yawmsaub teb tas, “Ua caag puab pe tej txoov daab,
   hab pe lwm haiv tuabneeg tej daab zwg ua rua kuv chim?”
  20Puab has tas, “Tub dhau lub caij hlais
   hab dhau lub caij ntuj qhua
   los peb tseed tsw tau dim.”
  21Vem kuv cov tuabneeg tug ntxhaise muaj qhov txhaab
   kuv lub sab txhad le ua kav txhaab,
  kuv quaj ntsuag hab txujkev poob sab nthaav
   ntsab tau kuv lawm.
  22Tsw muaj tshuaj khu mob huv Kile‑a lov?
   Tsw muaj Kws tshuaj nyob hov ntawd lov?
  Yog le ntawd, ua caag khu tsw tau
   kuv cov tuabneeg tug ntxhais rov zoo le qub?

8

1“Lúc ấy,” CHÚA phán, “người ta sẽ lấy hài cốt của các vua Giu-đa, hài cốt của các quan nó, hài cốt của các tư tế nó, hài cốt của các tiên tri nó, và hài cốt của dân cư Giê-ru-sa-lem ra khỏi các phần mộ của chúng, 2rồi chúng sẽ bị đem phơi dưới mặt trời, mặt trăng, và tất cả các tinh tú trên trời, là những thứ chúng đã yêu mến, chúng đã phục vụ, chúng đã đi theo, chúng đã cầu vấn, và chúng đã phụng thờ. Hài cốt của chúng sẽ không được gom lại và không được chôn cất, nhưng sẽ như phân trên mặt đất. 3Bấy giờ tất cả những kẻ còn sót lại của dân tộc xấu xa tội lỗi ấy đều ước ao rằng thà chết còn hơn là sống ở những nơi Ta xua đuổi chúng đến,” CHÚA các đạo quân phán vậy.

Xã Hội Băng Hoại

  4“Ngươi hãy nói với chúng: CHÚA phán thế nầy,
  Khi người ta ngã, chẳng lẽ họ không đứng dậy sao?
  Khi người ta đi lạc đường, chẳng lẽ họ không quay trở lại sao?
  5Thế nhưng sao dân nầy đã quay lưng bỏ đi,
  Và Giê-ru-sa-lem cứ miệt mài trong con đường lầm lạc mãi vậy?
  Chúng cứ cố tình bám theo sự dối trá,
  Chúng cứ ngoan cố, chúng không chịu quay về.
  6Ta đã lắng tai và chăm chú để nghe,
  Nhưng chúng chẳng nói thật,
  Không ai hối cải về việc ác của mình,
  Mà nói rằng, ‘Hỡi ôi, tôi đã làm gì vậy?’
  Nhưng ai nấy cứ theo đường riêng của mình,
  Như chiến mã cắm đầu phóng vào trận mạc.
  7Ngay cả loài cò hạc sống ở trên cao mà còn biết mùa nào phải di chuyển,
  Loài bồ câu đất, chim én, và chim nhạn còn biết mùa nào phải làm gì,
  Nhưng dân Ta lại không biết mạng lịnh của CHÚA.
  8Làm sao các ngươi có thể nói được rằng,
  ‘Chúng tôi khôn ngoan, vì luật pháp của CHÚA ở với chúng tôi,’
  Trong khi sự thật là bọn dạy giáo luật đã dùng ngòi bút của chúng bẻ cong lẽ thật,
  Và biến nó thành một điều dối trá?
  9Bọn học thức khôn ngoan ấy sẽ phải xấu hổ thẹn thùng,
  Chúng sẽ phải sợ hãi và sẽ bị tóm cổ lôi đi;
  Này, lời của CHÚA mà chúng còn dám cả gan loại bỏ,
  Thì học thức khôn ngoan của chúng còn có giá trị gì?
  10Vì thế vợ của chúng Ta sẽ ban cho kẻ khác,
  Ruộng vườn của chúng Ta sẽ trao cho những kẻ đến chiếm xứ trong tương lai,
  Vì từ kẻ nhỏ nhất cho đến người lớn nhất,
  Ai nấy đều kiếm lợi một cách không lương thiện,
  Từ các tiên tri cho đến các tư tế,
  Ai cũng đều gian dối mánh mung.
  11Chúng đã băng bó vết thương của dân Ta cách sơ sài cẩu thả,
  Rồi bảo rằng, ‘Bình an! Bình an!’ mà kỳ thật chẳng có bình an chi cả.
  12Chúng đã làm những điều gớm ghiếc;
  Há chúng không biết tự trọng mà hổ thẹn sao?
  Nhưng chúng đã không lấy thế làm nhục;
  Chúng đã không biết đỏ mặt thẹn thùng.
  Vì vậy, chúng sẽ ngã xuống giữa những người ngã xuống,
  Vào thời kỳ Ta đoán phạt chúng trong tương lai.
  Chúng chắc chắn sẽ bị lật đổ,” CHÚA phán.

  13CHÚA phán, “Ta muốn đem chúng ra để giữ chúng lại,
  Nhưng cây nho chẳng còn một trái trên cành,
  Cây vả cũng chẳng còn trái,
  Ngay cả lá của chúng cũng đã héo khô,
  Thật vậy, những gì Ta đã ban cho chúng đều chẳng còn gì cả.”
  14Tại sao chúng ta cứ ngồi yên bất động?
  Hãy tập họp lại;
  Chúng ta hãy vào cố thủ trong các thành kiên cố,
  Thà chúng ta chết chung với nhau trong đó,
  Vì CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng ta, đã quyết tâm tiêu diệt chúng ta;
  Ngài đoán phạt chúng ta như thể chúng ta bị bắt phải uống nước độc,
  Vì chúng ta đã phạm tội chống lại Ngài.
  15Chúng ta mong mỏi bình an, nhưng an lành đâu chẳng thấy;
  Chúng ta trông mong được chữa lành, nhưng chỉ thấy toàn nỗi kinh hoàng.

  16“Ở Ðan người ta đã bắt đầu nghe tiếng thở hổn hển của các ngựa của chúng,
  Khi nghe tiếng các chiến mã của chúng hí, cả xứ đều kinh hoàng run rẩy.
  Chúng đến, thiêu nuốt đất nước và mọi vật trong đó,
  Thiêu nuốt thành trì và tiêu diệt mọi người trong đó.
  17Nầy, Ta thả các rắn độc ra giữa các ngươi,
  Các rắn cực độc mà không kẻ dụ rắn nào có thể kiềm chế chúng được,
  Chúng sẽ cắn các ngươi,” CHÚA phán.

Giê-rê-mi-a Khóc Cho Dân

  18Niềm vui của tôi đã mất,
  Nỗi buồn thảm tràn ngập tâm hồn tôi,
  Lòng tôi sờn ngã.
  19Hãy nghe, tiếng kêu khóc của con gái dân tôi từ xa vọng về,
  “CHÚA có còn ở Si-ôn không?
  Vua của nàng có còn ở với nàng không?”
  “Tại sao các ngươi đã chọc giận Ta bằng những hình tượng,
  Bằng những thần tượng hư ảo của các dân ngoại?”

  20Mùa gặt đã qua, mùa hè đã hết,
  Mà chúng ta vẫn chưa được cứu.
  21Vì nỗi đau của con gái dân tôi nên lòng tôi đau đớn,
  Tôi than thở âu sầu, và nỗi kinh hoàng bám chặt lấy tôi.
  22Không còn dầu chữa bịnh ở Ghi-lê-át sao?
  Chẳng còn có y sĩ nào ở đó nữa hay sao, mà bịnh của con gái dân tôi vẫn chưa được chữa lành?