1

1Yie, Baulo, zoux Yesu Giduc nyei bou. Tin-Hungh ginv yie daaih zoux ⟨gong-zoh⟩ yaac paaiv yie zunh ninh nyei kuv fienx. 2Naaiv kuv fienx zinh ndaangc Tin-Hungh laengz liuz aqv, yaac longc ninh nyei zuangx ⟨gong-zoh⟩ fiev jienv wuov Ging-Sou. 3Kuv fienx gorngv ninh nyei Dorn, mbuo nyei Ziouv Yesu Giduc, cuotv seix daaih benx dauh baamh mienh, zoux Ndaawitv nyei Zeiv-Fun. 4Cing-nzengc nyei Singx Lingh yaac bun cing ninh zoux Tin-Hungh nyei Dorn, weic zuqc ninh daic mingh, Tin-Hungh longc domh qaqv bun ninh aengx nangh daaih. 5Tin-Hungh longc ninh ceix en bun yie mbuo zoux gong-zoh, weic ninh nyei mengh dorh maanc fingx mienh sienx yaac muangx ninh nyei waac. 6Liemh meih mbuo Lomaa Zingh nyei mienh, Tin-Hungh yaac heuc daaih benx Yesu Giduc nyei mienh mi'aqv.
7Yie ziouc fiev fienx bun meih mbuo yiem Lomaa Zingh nyei zuangx mienh, dongh Tin-Hungh hnamv yaac heuc daaih benx ninh ganh nyei mienh wuov deix.
 Tov mbuo nyei Zaangc Diex Tin-Hungh caux Ziouv Yesu Giduc ceix en ceix baengh orn bun meih mbuo.

Baulo Oix Mingh Yiem Douc Lomaa Zingh

8Da'yietv, Yesu Giduc bun yie weic meih mbuo zuangx mienh laengz zingh yie nyei Tin-Hungh, weic zuqc lungh ndiev mienh haiz gorngv meih mbuo sienx duqv longx. 9Tin-Hungh, dongh yie buangv hnyouv tengx zoux gong zunh ninh nyei Dorn nyei kuv fienx wuov dauh, haih tengx yie zoux zorng-zengx. Ninh hiuv duqv yie haaix zanc daux gaux yie tih taux meih mbuo. 10Yie oix mingh meih mbuo naaic lauh haic aqv, mv baac mingh maiv ziangh. Yie tov Tin-Hungh, se gorngv ei ninh nyei za'eix, koi jauv bun yie ih zanc maaih qangx duqv mingh meih mbuo naaic.
11Yie za'gengh! oix buatc haic meih mbuo, weic bun meih mbuo duqv Singx Lingh nyei zingh nyeic ziouc tengx meih mbuo sienx gauh henv. 12Yie gorngv nyei se, meih mbuo duqv buatc yie nyei sienx fim, yie yaac duqv buatc meih mbuo nyei sienx fim, laanh ziouc haih tengx laanh sienx gauh henv.
13Zuangx gorx-youz aac, yie oix meih mbuo hiuv duqv yie jiez ziex nzunc hnyouv oix mingh meih mbuo naaic mv baac maaih sic zorv jienv, mingh maiv ziangh. Yie oix mingh meih mbuo naaic, yiem meih mbuo mbu'ndongx dorh mienh sienx Ziouv hnangv yie yiem camv-fingx Janx mbu'ndongx dorh nor. 14Maiv gunv haaix nyungc mienh, yiem mungv fai yiem lomc nyei, doqc jiex sou fai maiv doqc jiex sou nyei, yie ndongc haaix zungv qiemx zuqc tengx. 15Weic naaiv yie za'gengh oix zunh kuv fienx bun meih mbuo Lomaa Zingh nyei mienh.

Kuv Fienx Nyei Domh Qaqv

16Yie zungv maiv nyaiv kuv fienx weic zuqc naaiv kuv fienx se Tin-Hungh nyei domh qaqv haih njoux yietc zungv sienx nyei mienh, njoux Yiutai Mienh ndaangc, nqa'haav cingx taux fingx-fingx Janx. 17Naaiv kuv fienx biux mengh Tin-Hungh hnangv haaix nor bun mienh caux ninh horpc hnyouv, se yiem gorn oix zuqc sienx yaac sienx taux setv mueiz. Hnangv Ging-Sou fiev jienv gorngv nor,
  “Haaix dauh sienx kaux Tin-Hungh
   ziouc caux Tin-Hungh horpc hnyouv,
    wuov dauh duqv ziangh jienv.”

Lungh Ndiev Mienh Yietc Zungv Baamz Zuiz

18Tin-Hungh yiem wuov tin-dorngh biux mengh ninh nouz haic mienh mangc piex ninh, yaac nouz haic mienh zoux nyei yietc zungv waaic sic. Ninh mbuo zoux nyei waaic sic muangh jienv zien leiz, maiv bun mienh hiuv. 19Tin-Hungh ziouc dingc ninh mbuo nyei zuiz, weic zuqc ninh mbuo haih hiuv duqv Tin-Hungh. Se Tin-Hungh ganh biux mengh bun ninh mbuo hiuv. 20Yiem zeix lungh zeix ndau daaih wuov zanc, Tin-Hungh yietc liuz yiem nyei domh qaqv caux ninh nyei fiem-fingx, maiv gunv m'zing mangc maiv buatc mv baac Tin-Hungh bun mienh mengh mengh hiuv duqv nyei. Buatc Tin-Hungh zeix daaih nyei ga'naaiv ziouc bun ninh mbuo hiuv duqv Tin-Hungh aqv. Ninh mbuo ziouc maiv maaih dorngx jaiv sin. 21Ninh mbuo hiuv duqv Tin-Hungh mv baac maiv taaih ninh zoux Tin-Hungh yaac maiv laengz zingh ninh. Ninh mbuo hnamv nyei jauv ziouc maiv lamh longc aqv. Hnyouv hngongx yaac hmuangx mi'aqv. 22Ninh mbuo ceng ganh cong-mengh mv baac ninh mbuo hngongx haic. 23Ninh mbuo horpc zuqc zaangc yietc liuz ziangh, njang-laangc nyei Tin-Hungh. Daaux nzuonx ninh mbuo zaangc miuc-fangx, dongh haih daic nyei mienh nyei fangx zeiv caux norqc caux saeng-kuv caux nyorng ndau nyei ga'naaiv nyei fangx. 24Weic naaiv, Tin-Hungh sueih ninh mbuo ei ganh nyei hnyouv hanc zoux laih hlopv nyei sic, longc ninh mbuo nyei sin, laanh caux laanh zoux nyaiv haic nyei sic. 25Ninh mbuo dorh Tin-Hungh nyei zien leiz goiv benx jaav leiz daaih longc. Ninh mbuo buoqc zaangc zeix daaih nyei ga'naaiv div Zeix Maanc Muotc Wuov Dauh, dongh mienh yietc liuz oix zuqc ceng wuov dauh. ⟨Aamen.⟩
26Laaix mienh hnangv naaiv nor zoux, Tin-Hungh sueih ninh mbuo ei ganh nyei hnyouv hanc zoux nyaiv haic nyei sic. M'sieqv dorn horpc zuqc longc m'jangc dorn, daaux nzuonx m'sieqv longc m'sieqv. 27M'jangc dorn yaac fih hnangv nyei guangc m'sieqv dorn maiv longc. M'jangc dorn hanc oix longc m'jangc hnangv douz zieqc jienv hnyouv nor jorm, laanh caux laanh zoux nyaiv haic nyei sic. Ninh mbuo zoux nyei waaic sic ziouc winh bun ninh mbuo ganh aqv. 28Laaix mienh hnyouv ngaengc, maiv oix hiuv Tin-Hungh, Tin-Hungh cingx daaih maiv gunv ninh mbuo. Sueih ninh mbuo gan ninh mbuo ganh waaic haic nyei hnyouv zoux maiv horpc zuqc zoux nyei sic. 29Ninh mbuo kungx zoux nyungc-nyungc waaic haic, orqv haic nyei sic, mauv ga'naaiv, laanh caux laanh zoux maiv benx nyei jauv. Ninh mbuo mueic jieqv, daix mienh, nzaeng jaax, nduov mienh, hnamv oix hoic mienh, gorngv waac-huv, 30pien buix daanh mienh, nzorng Tin-Hungh, gorngv doqc mienh, zoux maux, ceng-hlo, daav za'eix zoux waaic sic, maiv muangx diex maac. 31Ninh mbuo hngongx, maiv ei laengz nyei waac zoux, maiv hnamv mienh yaac maiv korv-lienh mienh. 32Ninh mbuo hiuv duqv Tin-Hungh nyei leiz gorngv zoux naaiv nyungc sic nyei mienh oix zuqc daic. Maiv daan ninh mbuo ganh zoux hnangv, mienh zoux, ninh mbuo yaac a'hneiv nyei.

1

1Phao-lô, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-xu, được Thượng Đế gọi làm sứ đồ và được chọn rao Tin Mừng của Ngài cho mọi người.
2Từ xưa, qua các nhà tiên tri của Ngài, Thượng Đế đã hứa ban Tin Mừng theo Thánh Kinh viết. 3-4Tin Mừng về Con Thượng Đế: Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. Về bản chất loài người, Ngài được sinh trong dòng họ vua Đa-vít nhưng qua Thánh Linh, Ngài được chỉ định làm Con Thượng Đế, với quyền năng cao cả, chứng tỏ bằng việc Ngài sống lại từ kẻ chết. 5Qua Chúa Cứu Thế, Thượng Đế đã giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt của một sứ đồ, để đưa dẫn mọi người trên thế giới trở lại tin nhận và vâng phục Chúa. Tôi làm công tác nầy vì Ngài. 6Còn quí anh chị em ở La-mã cũng được kêu gọi để thuộc riêng về Ngài.
7Kính gởi: Anh chị em ở La-mã là người đã được Thượng Đế yêu thương và kêu gọi để trở thành dân thánh của Ngài.
 Cầu chúc anh chị em nhận được ân phúc và bình an từ Thượng Đế, Cha chúng ta và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Lời cầu nguyện tạ ơn

8Trước hết tôi cảm tạ Thượng Đế tôi, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu về tất cả anh chị em, vì khắp nơi ai nấy đều ca ngợi đức tin anh chị em. 9Thượng Đế, Đấng mà tôi hết lòng phục vụ bằng cách rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, biết rằng tôi luôn luôn nhắc đến anh chị em 10mỗi khi cầu nguyện. Tôi cầu xin được đến thăm anh chị em và nếu đẹp ý Thượng Đế, thì việc ấy sẽ thành. 11Tôi rất muốn gặp gỡ anh chị em để dùng những ân tứ thuộc linh tôi có mà giúp anh chị em lớn mạnh hơn. 12Tôi muốn mỗi người trong chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau, theo đức tin mình có. Đức tin anh chị em sẽ khích lệ tôi, ngược lại, đức tin tôi sẽ khích lệ anh chị em. 13Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết rằng, nhiều lần tôi dự định đến thăm các anh chị em nhưng chưa được. Tôi muốn thăm để giúp các anh chị em lớn lên về mặt tâm linh như tôi đã giúp các người ngoại quốc khác.
14Tôi mang nặng một nghĩa vụ đối với mọi người—từ người Hi-lạp hay không phải Hi-lạp, người khôn ngoan cũng như người ngu dốt. 15Vì thế mà tôi rất muốn rao truyền Tin Mừng cho quí anh chị em là người La-mã.
16Tôi rất hãnh diện về Tin Mừng nầy, vì là quyền năng của Thượng Đế để cứu những ai tin—trước hết là người Do-thái rồi đến những người không phải Do-thái. 17Tin Mừng ấy cho thấy Thượng Đế giúp cho con người hòa thuận lại với Ngài—bắt đầu và kết thúc đều qua đức tin. Như Thánh Kinh viết, “Những ai đã hòa thuận lại với Ngài sẽ sống mãi bằng đức tin.”

Mọi người đều phạm tội

18Cơn giận của Thượng Đế từ trời đã tỏ ra để chống lại mọi điều ác và trái phép mà con người làm. Qua nếp sống độc ác của họ, con người đã che giấu sự thật. 19Thượng Đế nổi giận, vì những gì họ cần biết về Thượng Đế thì đã trình bày rõ ràng cho họ. Chính Thượng Đế đã phơi bày những điều ấy ra cho họ. 20Có nhiều điều về Thượng Đế mà con người không thể thấy—chẳng hạn như quyền năng vô hạn và thiên tính của Ngài. Nhưng từ thuở tạo thiên lập địa, hai đặc tính nầy đều sờ sờ ra đó và ai cũng hiểu được. Cho nên họ không có lý do gì để bào chữa về những việc làm xấu xa của mình. 21Họ đã biết Thượng Đế, nhưng không chịu tôn kính hoặc tạ ơn Ngài. Tư tưởng họ thật vô dụng. Trí óc họ đầy ngu tối. 22Họ bảo rằng mình khôn ngoan nhưng lại hóa ra ngu dại. 23Họ đánh đổi vinh hiển của Thượng Đế, là Đấng sống đời đời, để thờ lạy những thần tượng tạc giống hình người, chim chóc, súc vật hoặc rắn rết.
24Vì họ hành động như thế nên Thượng Đế bỏ mặc họ đi theo con đường tội lỗi, lúc nào họ cũng muốn làm ác. Do đó, họ đầy dẫy tội nhục dục, sử dụng thân thể với nhau một cách bậy bạ. 25Họ đã đánh đổi sự thật của Thượng Đế để lấy sự dối trá. Họ thờ phụng những vật được tạo dựng, thay vì thờ Đấng Tạo Hóa là Đấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.
26Vì thế cho nên Thượng Đế đã bỏ mặc họ làm những việc nhơ nhuốc theo ý họ. Đàn bà không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà trái lại, hành dục với nhau. 27Đàn ông cũng vậy, không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà lại hành dục với nhau. Đàn ông làm những việc nhơ nhuốc với nhau, vì lý do đó thân thể họ phải mang lấy hình phạt về tội phạm của mình.
28Người ta không cho việc hiểu biết thực sự về Thượng Đế là quan trọng. Nên Thượng Đế bỏ mặc họ suy nghĩ theo ý tưởng ngông cuồng, làm những việc bậy bạ. 29Lòng họ đầy dẫy tội lỗi, độc ác, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, giết người, tranh giành, dối trá, làm hại nhau. Họ nói hành, 30bêu xấu lẫn nhau và thù ghét Thượng Đế. Họ cộc cằn, kiêu căng và khoác lác. Lúc nào họ cũng nghĩ đến chuyện làm quấy, không vâng lời cha mẹ. 31Họ ngu dại, không giữ lời hứa, thiếu nhân từ và khoan dung với người khác. 32Họ biết luật Thượng Đế dạy rằng những ai có đời sống như vậy thật đáng chết, nhưng không những họ vẫn tiếp tục làm ác, mà lại còn xúi giục kẻ khác làm nữa.