13

Yêsu Rao Jơ̆ng Phung Ƀĭng Kna Ñu

1Êlâo kơ hruê Knăm Klei Găn, Yêsu thâo mông truh leh brei Ñu kbiă đuĕ mơ̆ng lăn ala wĭt kơ Ama. Ñu khăp leh kơ phung Ñu hlăm lăn ala, leh anăn Ñu khăp kơ digơ̆ tơl knhal tuč. 2Êjai diñu dôk huă ƀơ̆ng mlam, yang jhat dưm leh hlăm ai tiê Y-Yuđas Iskariôt, anak êkei Y-Simôn, klei mĭn lhiăr kơ Yêsu, 3Yêsu thâo kơ Ama jao leh jih jang mnơ̆ng hlăm kngan Ñu, kơ Ñu hriê leh mơ̆ng Aê Diê, leh anăn srăng lŏ wĭt kơ Aê Diê, 4snăn Ñu kgŭ mơ̆ng jhưng huă, toh hĕ ao jhung Ñu, mă čhiăm sut leh anăn hyuă ti kơiêng Ñu. 5Ñu tuh êa hlăm sa boh hmăm, dơ̆ng rao jơ̆ng phung ƀĭng kna, leh anăn sut jơ̆ng digơ̆ hŏng čhiăm Ñu hyuă ti kơiêng. 6Ñu truh kơ Y-Simôn Pêtrôs, snăn gơ̆ lač kơ Ñu, “Ơ Khua Yang, ih rao jơ̆ng kâo hĕ?” 7Yêsu lŏ wĭt lač kơ gơ̆, “Ya kâo ngă ih amâo thâo săng ôh ară anei, ƀiădah êdei ih srăng thâo săng.” 8Y-Pêtrôs lač kơ Ñu, “Hơăi, ih amâo srăng rao jơ̆ng kâo ôh.” Yêsu lŏ wĭt lač kơ gơ̆, “Tơdah kâo amâo rao ih, ih amâo mâo sa kdrêč hlăm kâo ôh.” 9Y-Simôn Pêtrôs lač kơ Ñu, “Ơ Khua Yang, amâo djŏ knŏng jơ̆ng kâo ôh, ƀiădah rao wăt kngan leh anăn boh kŏ kâo msĕ mơh!” 10Yêsu lač kơ gơ̆, “Hlei pô mnei leh, knŏng yuôm brei arăng rao jơ̆ng ñu, kyuadah asei mlei ñu doh leh. Leh anăn diih jing doh leh, ƀiădah amâo djŏ jih jang diih ôh.” 11Kyuadah Ñu thâo leh hlei pô srăng lhiăr kơ Ñu. Kyuanăn Yêsu lač, “Amâo djŏ jih jang diih ôh jing doh.”
12Leh Yêsu rao jơ̆ng digơ̆, lŏ hơô ao jhung Ñu, leh anăn lŏ dôk gŭ ti jhưng huă, Ñu lač kơ digơ̆, “Diih thâo săng mơ̆ ya kâo ngă leh kơ diih? 13Diih pia kâo Nai leh anăn Khua Yang. Djŏ leh diih pia, kyuadah kâo gơ̆ yơh anăn. 14Tơdah kâo, Khua Yang leh anăn Nai diih, rao leh jơ̆ng diih, snăn msĕ mơh brei diih bi rao jơ̆ng hdơ̆ng diih. 15Kyuadah kâo ngă leh sa klei bi hmô kơ diih, čiăng kơ diih msĕ mơh ngă msĕ si kâo ngă leh kơ diih. 16Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, sa čô dĭng buăl amâo jing prŏng hĭn kơ khua ñu ôh; leh anăn pô arăng tiŏ nao amâo jing prŏng hĭn kơ pô tiŏ nao ñu ôh. 17Tơdah diih thâo leh anăn ngă klei anăn, jăk mơak yơh kơ diih. 18Kâo amâo blŭ djŏ kơ jih jang diih ôh. Kâo thâo hlei phung kâo ruah leh, ƀiădah čiăng bi sĭt Klei Aê Diê Blŭ čih leh, ‘Pô ƀơ̆ng kpŭng kâo yŏng leh kđul ñu čiăng čưng kâo,’ 19kâo hưn klei anăn kơ diih êlâo klei anăn truh, čiăng kơ tơdah truh, diih dưi đăo kơ kâo gơ̆ yơh jing Pô Jing. 20Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, hlei pô jum mnuih kâo tiŏ nao msĕ si jum kâo mơh; leh anăn hlei pô jum kâo jum wăt Pô tiŏ hriê kâo msĕ mơh!”

Yêsu Hưn Klei Arăng Srăng Lhiăr kơ Ñu

(Mat 26:20-25; Mark 14:17-21; Luk 22:21-23)

21Leh Yêsu blŭ klei anăn, mngăt Ñu rŭng răng, leh anăn Ñu lač, “Kâo hưn kơ diih klei sĭt nik, sa čô hlăm phung diih srăng lhiăr kơ kâo.” 22Phung ƀĭng kna bi dlăng hdơ̆ng diñu, amâo mâo sa čô thâo ôh kơ hlei pô Yêsu blŭ klei anăn. 23Sa čô hlăm phung ƀĭng kna, pô Yêsu khăp, knang boh kŏ ñu ti đah da Yêsu. 24Snăn Y-Simôn Pêtrôs pưi kngan êmuh kơ pô anăn, lač, “Hưn bĕ kơ hmei kơ hlei pô Yêsu blŭ klei anăn.” 25Snăn êjai knang ti đah da Yêsu, gơ̆ lač kơ Yêsu, “Ơ Khua Yang, hlei pô anăn?” 26Yêsu lŏ wĭt lač, “Ñu yơh jing pô kâo srăng brei klŏ kpŭng tơdah leh kâo đrŭt anei.” Snăn tơdah Ñu đrŭt leh klŏ kpŭng anăn, Ñu brei gơ̆ kơ Y-Yuđas anak êkei Y-Simôn Iskariôt. 27Leh Y-Yuđas mă klŏ kpŭng anăn, yang Satan mŭt hlăm Y-Yuđas. Yêsu lač kơ Y-Yuđas, “Ya klei ih ngă, ngă bĕ bi djăl.” 28Ƀiădah amâo mâo mnuih ti jhưng huă anăn thâo săng ya ngă Yêsu lač klei anăn kơ gơ̆. 29Đa đa mĭn kyuadah Y-Yuđas djă hip prăk, Yêsu mtă kơ gơ̆, “Blei bĕ ya mnơ̆ng drei kƀah kơ hruê knăm;” amâodah čiăng kơ gơ̆ nao bi mbha mnơ̆ng kơ phung ƀun ƀin. 30Snăn leh Y-Yuđas mă klŏ kpŭng anăn, gơ̆ kbiă đuĕ mtam; hlăk anăn mmăt mlam leh.

Klei Mtă Mrâo

31Leh Y-Yuđas kbiă đuĕ, Yêsu lač, “Ară anei Anak Mnuih mâo klei guh kơang, leh anăn hlăm Ñu Aê Diê mâo klei guh kơang. 32Tơdah Aê Diê mâo klei guh kơang hlăm Ñu, msĕ mơh Aê Diê srăng bi guh kơang kơ Anak Mnuih hlăm Aê Diê pô, leh anăn Aê Diê srăng ngă msĕ snăn mtam. 33Ơ phung hđeh điêt, ăt dôk knŏng bhiâo kâo dôk mbĭt hŏng diih. Diih srăng duah kâo; leh anăn msĕ si kâo lač leh kơ phung Yuđa, ară anei kâo lač kơ diih msĕ mơh, ‘Ti anôk kâo nao, diih amâo dưi nao ôh.’ 34Kâo brei klei mtă mrâo kơ diih: brei diih bi khăp hdơ̆ng diih pô; msĕ si kâo khăp leh kơ diih, brei diih bi khăp hdơ̆ng diih pô msĕ mơh. 35Hŏng klei anei jih jang mnuih srăng thâo kơ diih jing phung ƀĭng kna kâo, tơdah diih bi khăp hdơ̆ng diih pô.”

Yêsu Hưn Êlâo Klei Y-Pêtrôs Srăng Hngah kơ Ñu

(Mat 26:31-35; Mark 14:27-31; Luk 22:31-34)

36Y-Simôn Pêtrôs êmuh Yêsu, “Ơ Khua Yang, ti anôk ih nao?” Yêsu lŏ wĭt lač, “Ti anôk kâo nao ih amâo dưi tui hlue kâo ôh ară anei, ƀiădah ih srăng tui hlue êdei.” 37Y-Pêtrôs êmuh Yêsu, “Ơ Khua Yang, si ngă kâo amâo dưi tui hlue ih ară anei lĕ? Kâo srăng jao klei hdĭp kâo pô kyua ih.” 38Yêsu lŏ wĭt lač, “Ih srăng jao brei klei hdĭp ih pô kyua kâo mơ̆? Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, mnŭ knô amâo srăng kdjô̆ ôh tơl ih hngah leh kơ kâo tlâo bliư̆.”

13

Sự đàm luận cuối cùng của Đức Chúa Jêsus với môn đồ. – Lời cầu nguyện Chúa như thầy cả.

(Từ đoạn 13 đến đoạn 17)

Đức Chúa Jêsus rửa chân môn đồ

1 Trước ngày lễ Vượt qua, Đức Chúa Jêsus biết giờ mình phải lìa thế gian đặng trở về cùng Đức Chúa Cha đến rồi; Ngài đã yêu kẻ thuộc về mình trong thế gian, thì cứ yêu cho đến cuối cùng.
2 Đương bữa ăn tối (ma quỉ đã để mưu phản Ngài vào lòng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt con trai Si-môn), 3 Đức Chúa Jêsus biết rằng Cha đã giao phó mọi sự trong tay mình, và mình đã từ Đức Chúa Trời đến, cũng sẽ về với Đức Chúa Trời, 4 nên đứng dậy khỏi bàn, cởi áo ra, lấy khăn vấn ngang lưng mình. 5 Kế đó, Ngài đổ nước vào chậu, và rửa chân cho môn đồ, lại lấy khăn mình đã vấn mà lau chân cho. 6 Vậy, Ngài đến cùng Si-môn Phi-e-rơ, thì người thưa rằng: Chúa ôi, chính Chúa lại rửa chân cho tôi sao? 7 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Hiện nay ngươi chẳng biết sự ta làm; nhưng về sau sẽ biết. 8 Phi-e-rơ thưa rằng: Chúa sẽ chẳng rửa chân tôi bao giờ! Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nếu ta không rửa cho ngươi, ngươi chẳng có phần chi với ta hết. 9 Si-môn Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, chẳng những rửa chân mà thôi, lại cũng rửa tay và đầu nữa! 10 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ai đã tắm rồi, chỉ cần rửa chân, thì được sạch cả. Vả, các ngươi đã được tinh sạch, nhưng chưa được tinh sạch đều. 11 Vì Ngài đã biết ai sẽ phản Ngài; tại thế cho nên Ngài phán rằng: Các ngươi chẳng phải hết thảy đều được tinh sạch.
12 Sau khi đã rửa chân cho môn đồ, Ngài mặc áo lại; đoạn ngồi vào bàn mà phán rằng: Các ngươi có hiểu điều ta đã làm cho các ngươi chăng? 13 Các ngươi gọi ta bằng Thầy bằng Chúa; các ngươi nói phải, vì ta thật vậy. 14 Vậy, nếu ta là Chúa là Thầy, mà đã rửa chân cho các ngươi thì các ngươi cũng nên rửa chân lẫn cho nhau. 15 Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi. 16 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, đầy tớ chẳng lớn hơn chủ mình, sứ giả cũng chẳng lớn hơn kẻ sai mình. 17 Ví bằng các ngươi biết những sự nầy, thì có phước, miễn là các ngươi làm theo. 18 Ta không nói về các ngươi hết thảy, ta biết những kẻ ta đã lựa chọn; nhưng lời nầy trong Kinh thánh phải được ứng nghiệm: Người ăn bánh ta, dở gót nghịch cùng ta. 19 Hiện bây giờ, ta nói điều nầy cùng các ngươi trước việc chưa xảy đến; để khi việc xảy đến rồi, các ngươi sẽ tin ta là Đấng đó. 20 Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, ai tiếp người mà ta đã sai, tức là tiếp ta; hễ ai tiếp ta, tức là tiếp Đấng đã sai ta đến.

Đức Chúa Jêsus rao sự phản nghịch của Giu-đa

21 Khi Đức Chúa Jêsus đã phán như vậy rồi, thì tâm thần Ngài bối rối, bèn tỏ ra rằng: Quả thật, quả thật, ta nói cùng các ngươi, một người trong các ngươi sẽ phản ta. 22 Các môn đồ ngó nhau, không biết Ngài nói về ai đó. 23 Vả, có một môn đồ dựa vào ngực Đức Chúa Jêsus, tức là người mà Ngài yêu. 24 Si-môn Phi-e-rơ ra dấu cho người đó rằng: Hãy nói cho chúng ta biết thầy phán về ai. 25 Vậy, người nghiêng mình trên ngực Đức Chúa Jêsus, hỏi rằng: Lạy Chúa, ấy là ai? 26 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ấy là kẻ mà ta trao cho miếng bánh ta sẽ nhúng đây. Đoạn, Ngài nhúng một miếng, rồi lấy cho Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, con trai của Si-môn. 27 Liền khi Giu-đa đã lấy miếng bánh, thì quỉ Sa-tan vào lòng người. Đức Chúa Jêsus bèn phán cùng người rằng: Sự ngươi làm hãy làm mau đi. 28 Nhưng các người ngồi đồng bàn đó chẳng ai hiểu vì sao Ngài phán cùng người như vậy. 29 Có kẻ tưởng rằng tại Giu-đa có túi bạc, nên Đức Chúa Jêsus biểu người: Hãy mua đồ chúng ta cần dùng về kỳ lễ; hay là: Hãy bố thí cho kẻ nghèo. 30 Còn Giu-đa, khi lãnh lấy miếng bánh rồi, liền đi ra. Khi ấy đã tối.

Điều răn mới. – Lời hỏi của Phi-e-rơ

31 Khi Giu-đa đã ra rồi, Đức Chúa Jêsus phán rằng: Hiện bây giờ Con Người được vinh hiển, và Đức Chúa Trời được vinh hiển nơi Con Người. 32 Đức Chúa Trời cũng sẽ làm cho Con Người vinh hiển nơi chính mình Ngài, và Ngài sẽ kíp làm cho vinh hiển. 33 Hỡi các con trẻ ta, ta còn tạm ở với các ngươi; các ngươi sẽ tìm ta, và như ta đã nói với người Giu-đa rằng: Các ngươi không thể đến nơi ta đi, thì bây giờ ta cũng nói với các ngươi như vậy. 34 Ta ban cho các ngươi một điều răn mới, nghĩa là các ngươi phải yêu nhau; như ta đã yêu các ngươi thể nào, thì các ngươi cũng hãy yêu nhau thể ấy. 35 Nếu các ngươi yêu nhau, thì ấy là tại điều đó mà thiên hạ sẽ nhận biết các ngươi là môn đồ ta.
36 Si-môn Phi-e-rơ thưa cùng Ngài rằng: Lạy Chúa, Chúa đi đâu? Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Nơi ta đi, bây giờ ngươi chẳng có thể theo ta được; nhưng rồi sau ngươi sẽ theo ta.
37 Phi-e-rơ thưa rằng: Lạy Chúa, sao hiện bây giờ tôi không thể theo Chúa được? Tôi liều sự sống tôi vì Chúa! 38 Đức Chúa Jêsus đáp rằng: Ngươi liều sự sống ngươi vì ta sao! Quả thật, quả thật, ta nói cùng ngươi, khi gà chưa gáy, ngươi đã chối ta ba lần!