4

De-bara Cớp Barac

1Toâq vớt E-hut cuchĩt, tỗp I-sarel táq ranáq lôih sĩa chóq Yiang Sursĩ. 2Ngkíq Yiang Sursĩ chiau tỗp alới pỡ talang atĩ Yabin, la puo cũai Cana-an; án cỡt puo tâng vil Hasôr. Cũai sốt tahan án, ramứh Si-sara, ỡt tâng vil Harô-set Hacô-yim. 3Yabin bữn sễ aséh rachíl noau táq toâq tac takêh culám lám; án cỡt sốt tỗp I-sarel cớp padâm tỗp alới nheq bar chít cumo. Chơ cũai I-sarel arô sễq Yiang Sursĩ chuai sĩa tỗp alới.
4Bo ki, niang De-bara, lacuoi Lapi-dôt, la cũai tang bỗq Yiang Sursĩ. Cớp án cỡt cũai rasữq tỗp I-sarel hỡ. 5Cũai proai I-sarel dốq toâq ramóh niang De-bara nhưp nỡm tarễc bân mpứng dĩ bar coah vil Rama cớp vil Bet-el tâng máh dũal cớp cóh cruang Ep-ra-im. Án tacu tâng ntốq ki dŏq rasữq tỗp I-sarel. 6Bữn muoi tangái, niang De-bara ớn cũai pỡq ramóh Barac con samiang Abi-nũam pỡ vil Kê-dét, cutễq tỗp Nep-tali, cớp pai neq: “Yiang Sursĩ, Ncháu cũai I-sarel, ớn mới neq: ‘Cóq mới rưoh cũai samiang muoi chít ngin náq tễ tỗp Nep-tali cớp tỗp Sa-bulôn; chơ dững alới chu cóh Tabor. 7Cứq ễ yỗn Si-sara, la cũai sốt tahan puo Yabin, loŏh chíl mới pỡ crỗng Ki-sôn, dếh sễ aséh rachíl cớp tahan án; ma cứq ễ yỗn mới chíl riap án.’”
8Barac ta‑ỡi niang De-bara neq: “Khân mới pỡq cớp cứq, ki cứq pỡq! Ma khân mới tỡ bữn pỡq, cứq tỡ bữn pỡq tê.”
9De-bara ta‑ỡi loah: “Ơq. Cứq pỡq cớp mới! Ma mới ŏ́q ramứh ranoâng tễ ranáq rachíl trỗ nâi, yuaq Yiang Sursĩ ễ chiau Si-sara pỡ talang atĩ muoi noaq mansễm.”
 Chơ De-bara yuor tayứng, cớp pỡq chu vil Kê-dét parnơi cớp Barac.
10Barac rưoh cũai tahan tễ tỗp Sa-bulôn cớp tỗp Nep-tali muoi chít ngin náq yỗn pỡq cớp án cớp niang De-bara.
11Cheq vil Kê-dét bữn muoi noaq samiang ramứh Ê-bêr tễ tỗp Kê-nit, tŏ́ng toiq Hô-bap; Hô-bap la ralái Môi-se; án táq dống aroâiq pưn nỡm aluang toâr pỡ vil Sana-nim.
12Bữn cũai pỡq atỡng yỗn Si-sara dáng Barac con samiang Abi-nũam khoiq toâq pỡ cóh Tabor. 13Ngkíq Si-sara arô takêh culám sễ aséh rachíl cớp nheq máh tahan án. Án ớn tỗp alới loŏh tễ vil Harô-set Hacô-yim pỡq chu crỗng Ki-sôn.
14Chơ niang De-bara atỡng Barac neq: “Mới yuor tayứng pỡq! Yiang Sursĩ pỡq nhũang mới. Tangái nâi án ễ chiau Si-sara pỡ talang atĩ mới.”
 Ngkíq Barac dững tahan án muoi chít ngin náq sễng tễ cóh Tabor, pỡq rachíl cớp Si-sara.
15Toâq Barac ớn tahan mut chíl, Yiang Sursĩ táq yỗn Si-sara cớp tahan dững sễ aséh rachíl, dếh máh cũai tahan canŏ́h cỡt clŏ́c clu. Chơ Si-sara pŏ́ng asễng tễ sễ aséh rachíl, cớp lúh chíq. 16Barac rapuai máh sễ aséh rachíl cớp máh tahan Si-sara toau toâq pỡ vil Harô-set Hacô-yim. Chơ án cachĩt táh nheq tỗp tahan Si-sara; tỡ bữn noau tamoong noâng.
17Ma Si-sara lúh tooq pỡ dống aroâiq niang Yêl, lacuoi Ê-bêr, tỗp Kê-nit. Yabin la puo cũai Hasôr, án cỡt yớu ratoi lứq cớp dống sũ Ê-bêr. 18Niang Yêl loŏh ramóh Si-sara cớp pai neq: “Sễq mơi achuaih mut tâng dống aroâiq nâi; chỗi ngcŏh ntrớu.”
 Ngkíq Si-sara mut; cớp niang Yêl ớn án tooq yáng clĩ aroâiq.
19Si-sara pai neq: “Cứq sễq nguaiq nứng dỡq, yuaq cứq sâng ễ khlac tháng!”
 Ngkíq niang Yêl ĩt dỡq tóh aloŏh yỗn án nguaiq; chơ yỗn án tooq loah bân ntốq tiaq.
20Moâm ki, Si-sara atỡng niang neq: “Sễq mới kĩaq bân ngoah toong dống aroâiq. Khân bữn noau blớh neq: ‘Bữn cũai toâq pỡ nâi tỡ?’ Sễq mới ta‑ỡi: ‘Tỡ hữm noau!’”
21Si-sara bếq langêt cỗ án sâng lakéh. Chơ Yêl, lacuoi Ê-bêr, ĩt parnúh cớp nŏ́c tac dŏq téh dống aroâiq. Án tayáh ngcuai lứq mut chu Si-sara, cớp téh nŏ́c tâng plỡ Si-sara toau sarloâiq tâng cutễq. Chơ Si-sara cuchĩt toâp. 22Tữ Barac toâq ravoât Si-sara, niang Yêl loŏh ramóh cớp atỡng án neq: “Sễq mơi anhia mut tâng clống dống! Hếq yoc anhia ramóh cũai anhia chuaq.”
 Ngkíq Barac mut tâng dống niang Yêl; án hữm Si-sara cuchĩt tâng cutễq, nŏ́c téh dống aroâiq noâng kiang tâng plỡ Si-sara.
23Tangái ki Yiang Sursĩ yỗn cũai I-sarel chíl riap Yabin, la puo tỗp Cana-an. 24Tỗp I-sarel cớp puo Yabin rachíl toâr lứq ễn. Toâq parsốt Yabin cỡt pê cớp cuchĩt.

4

Nữ quan án Đê-bô-ra

1Sau khi Ê-hút qua đời, dân Ít-ra-en lại làm điều CHÚA cho là quấy. 2Cho nên Ngài để Gia-bin, vua Ca-na-an, người cai trị thành Hát-so, đánh bại dân Ít-ra-en. Xi-xê-ra ở Ha-sô-rết Ha-gô-im là tư lệnh quân đội của Gia-bin. 3Vì người có chín trăm xe bọc sắt và rất tàn bạo đối với dân Ít-ra-en trong hai mươi năm cho nên dân Ít-ra-en kêu cứu cùng CHÚA.
4Lúc đó có Đê-bô-ra, nữ tiên tri, vợ của Láp-bi-đốt, làm quan án cho dân Ít-ra-en. 5Đê-bô-ra thường ngồi dưới gốc cây chà là Đê-bô-ra, nằm giữa hai thành phố Ra-ma và Bê-tên, trong vùng núi Ép-ra-im. Dân Ít-ra-en đến cùng bà để nhờ phân xử những tranh chấp. 6Đê-bô-ra nhắn Ba-rác, con A-bi-nô-am. Ba-rác sống ở thành Kê-đết, một vùng thuộc Nép-ta-li. Đê-bô-ra bảo Ba-rác rằng, “CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en truyền cho ngươi như sau: Hãy đi triệu tập mười ngàn người Nép-ta-li và Xê-bu-lôn, hướng dẫn họ đến núi Ta-bô. 7Ta sẽ khiến Xi-xê-ra, tư lệnh quân đội của Gia-bin, các xe bọc sắt của người, và toàn lực lượng người gặp ngươi ở sông Ki-sôn. Ta sẽ trao Xi-xê-ra vào tay ngươi.”
8Nhưng Ba-rác bảo Đê-bô-ra, “Nếu bà đi với tôi thì tôi sẽ đi, còn không, tôi không đi.”
9Đê-bô-ra đáp, “Dĩ nhiên tôi sẽ đi với ông, nhưng công trận của chiến thắng nầy sẽ không thuộc về ông. CHÚA sẽ dùng một người đàn bà đánh bại Xi-xê-ra.”
 Vậy Đê-bô-ra cùng đi với Ba-rác xuống Kê-đết.
10Đến Kê-đết, Ba-rác triệu tập người Xê-bu-lôn và Nép-ta-li lại. Ông chọn ra mười ngàn người trong số họ đi theo mình, Đê-bô-ra cũng đi chung.
11Lúc đó Hê-be, người Kê-nít đã chia tay với các người Kê-nít khác, tức con cháu Hê-báp, anh rể của Mô-se. Hê-be dựng lều mình gần cây cổ thụ Xa-a-nan-nim, gần Kê-đết.
12Khi Xi-xê-ra hay tin Ba-rác, con A-bi-nô-am đã đi đến núi Ta-bô, 13liền tập họp chín trăm xe bọc sắt và tất cả những người đi với mình, từ Ha-xô-rết Ha-gô-im cho đến sông Ki-sôn.
14Đê-bô-ra bảo Ba-rác, “Hãy đứng lên! Hôm nay là ngày CHÚA sẽ trao Xi-xê-ra vào tay ông. CHÚA đã dọn đường cho ông.” Vậy Ba-rác hướng dẫn mười ngàn người đi xuống núi Ta-bô. 15Khi Ba-rác gần đến, CHÚA làm rối loạn hàng ngũ Xi-xê-ra, đoàn quân và xe bọc sắt của người. CHÚA dùng gươm đánh bại chúng, Xi-xê-ra liền bỏ xe bọc sắt chạy bộ tẩu thoát. 16Ba-rác và những người của ông rượt theo các xe bọc sắt và đoàn quân của Xi-xê-ra cho đến Ha-gô-im. Họ dùng gươm giết tất cả các quân lính của Xi-xê-ra, không một ai sống sót.
17Còn Xi-xê-ra chạy trốn vào lều của Gia-ên. Cô là vợ Hê-be, một trong những gia đình họ Kê-nít. Gia đình Hê-be và Gia-bin, vua Hát-xo, sống hoà thuận nhau. 18Gia-ên ra đón Xi-xê-ra và mời, “Ông chủ hãy vào trong lều tôi! Vào đây, đừng sợ gì.” Xi-xê-ra liền vào lều Gia-ên, rồi nàng lấy chiếu trùm người lại.
19Xi-xê-ra bảo Gia-ên, “Tôi khát nước lắm. Làm ơn cho tôi chút nước uống.” Nàng liền mở bầu da đựng sữa cho người uống rồi trùm người lại.
20Người bảo nàng, “Hãy ra đứng trước cửa lều. Nếu ai đến hỏi, ‘Có ai ở đây không?’ thì phải nói ‘Không có.’”
21Nhưng Gia-ên vợ Hê-be lấy một cây cọc lều và một cái búa nhè nhẹ đến gần Xi-xê-ra. Vì quá mệt nên Xi-xê-ra ngủ thiếp đi. Nàng đóng cây cọc lều xuyên qua màng tang Xi-xê-ra và cắm đầu người dính xuống đất. Xi-xê-ra chết.
22Lúc đó Ba-rác đi ngang lều Gia-ên vì đang rượt theo Xi-xê-ra. Gia-ên ra đón ông và bảo, “Hãy vào đây. Tôi sẽ chỉ cho ông người ông đang tìm.” Ba-rác vào trong lều thấy Xi-xê-ra nằm chết sóng soài, có cây cọc lều xuyên qua đầu.
23Trong ngày đó Thượng Đế đánh bại Gia-bin, vua Ca-na-an trước mặt dân Ít-ra-en. 24Dân Ít-ra-en càng ngày càng hùng mạnh hơn Gia-bin, vua Ca-na-an cho đến khi họ hoàn toàn tiêu diệt vua đó.