4

Phi-er Cớp Yang Ỡt Yáng Moat Cũai Sốt

1Bo Phi-er cớp Yang noâng atỡng, máh cũai sốt tỗp tễng rit sang, cũai sốt tahan kĩaq Dống Sang Toâr, cớp máh cũai Sa-dusê toâq toâp pỡ ntốq ki. 2Máh cũai ki ũan lứq chóq Phi-er cớp Yang, yuaq alới bar náq atỡng tễ Yê-su khoiq tamoong loah. Cớp alới pai cỗ nhơ tễ Yê-su tamoong loah, ngkíq cũai canŏ́h têq tamoong loah machớng Yê-su tê. 3Ngkíq máh cũai sốt cỗp toâp alới bar náq, cớp khang tâng cuaq tũ. Tangái ki khoiq cheq sadâu chơ. Ngkíq alới yoc ễ blớh bar náq ki tâng tangái parnỡ ễn. 4Ma clứng lứq cũai sa‑âm parnai alới bar náq ki atỡng. Máh cũai samiang ca sa‑âm bo ki, bữn sám sỡng ngin náq.
5-6Toâq tangái parnỡ ễn, máh cũai sốt tỗp I-sarel, máh cũai sốt nheq sâu, cớp máh cũai yống rit, nheq tữh alới rôm tâng vil Yaru-salem. Alới pỡq ramóh An-na, án ca sốt nheq tễ rit sang Yiang Sursĩ. Cớp bữn máh cũai tễ dống An-na ỡt ngki tê, dếh Cai-pha, Yang, cớp Alec-sandơ. 7Tỗp alới ớn noau dững Phi-er cớp Yang toâq pỡ alới; chơ alới blớh bar náq ki neq: “Noau yỗn anhia bữn chớc táq bán cũai yỗt ki? Ntrớu ramứh án?”
8Bo ki Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm Phi-er, chơ án pai neq: “Cũn anhi ơi! Cứq sễq atỡng anhia. 9Khân anhia yoc ễ dáng cỗ nŏ́q hếq têq chuai cũai yỗt nâi yỗn cỡt bán, 10cóq anhia cớp nheq tữh cũai I-sarel dáng raloaih tễ ranáq nâi. Ranáq nâi ống Yê-su Crĩt toâp têq táq. Yê-su la cũai tễ vil Na-sarễt, án ca anhia khoiq cachĩt na téh án tâng aluang sangcáng. Ma Yiang Sursĩ yỗn án tamoong loah. 11Án la samoât cốc tamáu cũai táq dống khoiq táh. Ma tamáu nâi o hỡn tễ nheq tamáu canŏ́h; chơ noau ĩt cớp chĩp bân soq dống. 12Pưn paloŏng nâi tỡ bữn noau noâng têq chuai amoong hái. Yiang Sursĩ yỗn ống Yê-su toâp táq ranáq chuai amoong hái.”
13Máh cũai sốt ki sâng dớt lứq Phi-er cớp Yang atỡng clŏ́q lứq, yuaq alới dáng bar náq ki la cũai proai miat sâng cớp tỡ bữn rien sa‑ữi. Ma alới dáng bar náq ki cơi ỡt cớp Yê-su. 14Ma cũai sốt ki tỡ dáng tếq ntrớu tễ ranáq Phi-er cớp Yang táq, yuaq alới hữm cũai yỗt khoiq cỡt bán chơ cớp tayứng parnơi cheq Phi-er cớp Yang. 15Ngkíq alới ớn Phi-er cớp Yang loŏh chíq tễ ntốq alới rôm, yuaq alới yoc ễ sarhống tuoiq ống alới sâng. 16Alới pai neq: “Nŏ́q hái ễ táq chóq bar náq nâi? Nheq tữh cũai tâng vil Yaru-salem khoiq hữm chơ tễ alới táq ranáq salễh lứq yỗn cũai yỗt nâi. Hái tỡ têq suon pai alới tỡ bữn táq ranáq ki. 17Ma hái chỗi yỗn ranáq nâi trŏ́h la‑ữt la‑ữi yỗn cũai canŏ́h dáng. Ngkíq cóq hái sưoq alới chỗi atỡng noâng tễ ramứh Yê-su.”
18Moâm ki alới arô loah Phi-er cớp Yang mut loah pỡ ntốq alới sarhống. Alới sưoq bar náq ki tỡ yỗn pỡq atỡng noâng tễ ramứh Yê-su.
19Ma Phi-er cớp Yang ta‑ỡi máh cũai sốt ki neq: “Nŏ́q anhia chanchớm, ranáq aléq Yiang Sursĩ hữm o hỡn? O hếq trĩh anhia, ma o hếq trĩh Yiang Sursĩ? 20Khân hếq tỡ bữn pỡq atỡng, ki tỡ têq. Máh ranáq hếq hữm Yê-su táq cớp máh parnai hếq sâng án atỡng, hếq cóq atỡng yỗn cũai canŏ́h dáng.”
21Ma máh cũai sốt ki prưt Phi-er cớp Yang tỡ yỗn atỡng noâng parnai nâi. Moâm alới sưoq ngkíq, chơ alới acláh. Alới tỡ têq táq ntrớu chóq bar náq ki, yuaq alới ngcŏh cũai proai táq loah alới. Nheq máh cũai proai khễn Yiang Sursĩ cỗ án chuai cũai yỗt nâi. 22Cũai yỗt nâi khoiq clữi pỗn chít cumo chơ, noap tễ mpiq án canỡt.

Tỗp Yê-su Câu Yỗn Cỡt Clŏ́q Lứq Ễn

23Tữ máh cũai sốt acláh Phi-er cớp Yang, alới chu loah pỡ tỗp alới, cớp atỡng loah máh parnai cũai sốt tỗp tễng rit sang Yiang Sursĩ cớp cũai sốt nheq sâu khoiq pai chóq alới. 24Ngkíq nheq tữh tỗp alới mpruam câu muoi mứt neq: “Yiang Sursĩ Ncháu Nheq Tữh Cũai ơi! Lứq anhia toâp tễng paloŏng, cốc cutễq nâi, dỡq mưt, cớp túc ramứh ỡt tâng ki. 25Tễ mbŏ́q anhia khoiq atỡng na achúc achiac hếq, Davĩt, tễ máh ŏ́c Raviei Yiang Sursĩ yỗn án atỡng. Davĩt pai neq:
  ‘Cỗ nŏ́q máh cruang cũai tâng cốc cutễq nâi ma ũan lứq chóq Yiang Sursĩ?
   Cỗ nŏ́q alới sarhống ngê tỡ bữn cỡt kia ntrớu?
  26Máh puo tâng cốc cutễq nâi cớp máh cũai sốt canŏ́h
   sarhống parnơi cớp pruam ễ chíl Yiang Sursĩ
cớp Puo ca Yiang Sursĩ khoiq rưoh.’
27Davĩt khoiq atỡng máh ŏ́c pĩeiq lứq tễ mbŏ́q; sanua hếq hữm ŏ́c ki khoiq toâq chơ. Hê-rôt cớp Phi-lat, alới khoiq rôm tâng vil Yaru-salem parnơi cớp máh cũai I-sarel cớp máh cũai tễ cruang canŏ́h hỡ, yoc ễ táq Yê-su. Yê-su la cũai táq ranáq anhia ca bráh o lứq. Nưm manoaq án toâp anhia rưoh dŏq chuai amoong cũai. 28Máh cũai sốt ki lứq rôm parnơi cớp táq máh ŏ́c anhia khoiq anoat tễ mbŏ́q. 29Sanua, Ncháu hếq ơi, anhia sâng santoiq máh cũai sốt ki yoc ễ táq hếq. Sễq anhia chuai yỗn mứt hếq cỡt clŏ́q lứq ễn dŏq atỡng níc tễ parnai anhia. 30Hếq sễq anhia tahâu satoaq cũai a‑ĩ yỗn cỡt bán. Cớp hếq sễq anhia apáh ranáq salễh cớp tếc tễ chớc anhia nhơ ramứh Yê-su, án ca táq ranáq anhia, bráh o lứq.”
31Moâm alới câu, dống alới rôm cỡt cacưt. Cớp Raviei Yiang Sursĩ cỡt sốt tâng mứt pahỡm alới. Chơ alới atỡng parnai Yiang Sursĩ clŏ́q lứq ễn.

Tỗp Puai Yê-su Pruam Chống Mun Alới

32Nheq tữh tỗp sa‑âm Yê-su cỡt muoi mứt muoi luam. Aléq bữn máh mun, án tỡ bữn ndỡm manoaq án, ma nheq tữh alới pruam ndỡm chống mun ki. 33Santoiq tỗp ayững atĩ Yê-su atỡng tễ Ncháu alới tamoong loah cỡt blễng lứq. Cớp Yiang Sursĩ satốh ŏ́c bốn yỗn tỗp alới ca puai Yê-su. 34-35Tâng tỗp alới tỡ bữn noau ŏ́q ntrớu. Aléq bữn ntốq cutễq tỡ la dống, cớp alới bũi pahỡm yoc ễ chuai yớu, alới chếq máh mun alới. Cớp alới pruam parỗm práq ki, chơ dững pỡ tỗp muoi chít la bar náq ayững atĩ Yê-su. Chơ tỗp ki tampễq yỗn cũai ca ŏ́q.
36-37Bữn manoaq samiang ramứh Yô-sep tễ sâu Lê-vi toâq tễ cỗn Sip-rơ. Án bữn muoi liang sarái, chơ án chếq sarái ki cớp dững asuoi práq kia pỡ tỗp muoi chít la bar náq. Tỗp muoi chít la bar náq dŏq án ramứh tamái Ba-naba. Santoiq Ba-naba parlong loah la ‘aliam cũai bữn ŏ́c ngua’.

4

Phi-rơ và Giăng Trước Hội Ðồng Lãnh Ðạo Do-thái

1Khi họ còn đang nói với dân, các tư tế, viên sĩ quan chỉ huy cảnh binh đền thờ, và những người Sa-đu-sê ập đến. 2Họ rất bực tức vì hai ông đã dạy cho dân và rao giảng về sự sống lại của người chết trong Ðức Chúa Jesus. 3Họ bắt các ông và giam vào ngục, định hôm sau sẽ đem ra xét xử, vì lúc ấy trời đã tối. 4Nhưng nhiều người đã tin sau khi nghe sứ điệp của họ; và số nam tín hữu lên đến khoảng năm ngàn người.
5Hôm sau các quan chức, các trưởng lão, và các thầy dạy giáo luật họp nhau tại Giê-ru-sa-lem, 6cùng với Thượng Tế An-nát, Cai-a-pha, Giăng, A-léc-xan-đơ, và nhiều người trong gia tộc của thượng tế. 7Họ điệu các ông ra, bắt đứng giữa, rồi tra hỏi, “Bởi thẩm quyền nào hay nhân danh ai các anh làm điều nầy?”
8Bấy giờ Phi-rơ được đầy dẫy Ðức Thánh Linh và nói với họ:
 “Kính thưa quý vị lãnh đạo của dân, kính thưa quý vị trưởng lão:
9Nếu ngày nay chúng tôi bị xét xử vì đã làm một việc tốt cho một người bị tật nguyền rằng làm thể nào người ấy được lành mạnh, 10thì xin mọi người trong quý vị và toàn dân I-sơ-ra-ên hãy biết rằng: ấy là nhờ danh của Ðức Chúa Jesus Christ người Na-xa-rét, Ðấng quý vị đã đóng đinh trên cây thập tự, Ðấng Ðức Chúa Trời đã làm cho sống lại từ cõi chết, chính nhờ danh Ngài mà người nầy được mạnh khỏe và đứng trước mặt quý vị đây. 11Ðức Chúa Jesus nầy là
  ‘Tảng đá đã bị quý vị, những thợ xây nhà, loại ra,
  Nhưng Ngài đã trở thành tảng đá góc nhà.’
12Chẳng có ơn cứu rỗi trong đấng nào khác, vì chẳng có danh nào khác ban cho loài người ở dưới trời, hầu chúng ta phải nhờ danh đó để được cứu.”
13Khi họ thấy sự bạo dạn của Phi-rơ và Giăng và nhận biết hai ông không phải là những người học thức khoa bảng mà chỉ là dân thường, họ lấy làm ngạc nhiên, và họ nhận ra rằng hai ông đã từng theo Ðức Chúa Jesus. 14Ngoài ra họ cũng thấy người được chữa lành đang đứng đó với hai ông nên họ chẳng biết đáp lại thế nào. 15Họ truyền cho những người ấy ra ngoài phòng họp của Hội Ðồng, rồi họ bàn luận với nhau 16rằng, “Chúng ta phải làm gì với những người nầy bây giờ? Vì quả thật mọi người sống ở Giê-ru-sa-lem đều biết rõ rằng hai người ấy đã làm một phép lạ rành rành; chúng ta không thể nào chối cãi. 17Nhưng để việc nầy khỏi đồn rộng ra trong dân, chúng ta hãy cảnh cáo họ, không cho phép họ nói đến danh ấy với ai nữa.”
18Sau khi đã gọi các ông vào, họ ra lịnh cấm các ông nhân danh Ðức Chúa Jesus để nói hay dạy cho ai. 19Nhưng Phi-rơ và Giăng trả lời và nói với họ, “Không lẽ vâng lời quý vị thay vì Ðức Chúa Trời là đúng trước mặt Ðức Chúa Trời chăng? Xin quý vị hãy xét đi. 20Vì chúng tôi không thể không nói những gì chúng tôi đã thấy và nghe.”
21Sau khi họ đe dọa các ông thêm, họ thả các ông ra, vì họ chẳng tìm được cớ gì để phạt các ông, và cũng vì họ sợ dân, bởi mọi người đều tôn vinh Ðức Chúa Trời về việc đã xảy ra.
22Vả, người đàn ông được phép lạ chữa lành đã ngoài bốn mươi tuổi.

Cộng Ðồng Tín Hữu Cầu Nguyện

23Sau khi được thả ra, họ đến với anh chị em tín hữu và thuật lại mọi điều các trưởng tế và các trưởng lão đã bảo họ. 24Khi mọi người nghe như thế, họ đồng lòng cất tiếng dâng lời cầu nguyện lên Ðức Chúa Trời rằng, “Lạy Chúa, Ngài là Ðấng đã dựng nên trời, đất, biển, và mọi vật trong chúng. 25Chính Ngài đã cậy Ðức Thánh Linh phán qua miệng của tổ phụ chúng con là Ða-vít, tôi tớ Ngài, rằng:
  ‘Vì sao các quốc gia nổi giận,
  Và các dân lập mưu vô ích?
  26Các vua thế gian đứng dậy,
  Và các lãnh tụ hiệp lại với nhau,
  Ðể chống lại Chúa,
  Và chống lại Ðấng Ðược Xức Dầu của Ngài.’
27Vì thật vậy, trong thành nầy, Vua Hê-rốt và Pôn-tơ Phi-lát, cùng các dân ngoại và dân I-sơ-ra-ên, đã hiệp với nhau để chống lại Ðức Chúa Jesus, đầy tớ thánh của Ngài, Ðấng được xức dầu của Ngài 28để thực hiện những việc do tay Ngài đã sắp đặt và chương trình Ngài đã định phải xảy ra. 29Giờ đây, Chúa ôi, xin đoái xem những lời đe dọa của họ, và xin ban cho các tôi tớ Ngài cứ dạn dĩ tiếp tục rao giảng Ðạo Ngài. 30Xin đưa tay Ngài ra chữa lành và bày tỏ những dấu kỳ và phép lạ trong danh Ðức Chúa Jesus, đầy tớ thánh của Ngài.”
31Khi họ cầu nguyện xong, nơi họ đang nhóm rúng động; họ được đầy dẫy Ðức Thánh Linh và rao giảng Ðạo Ðức Chúa Trời cách dạn dĩ.

Các Tín Hữu Chia Sẻ Với Nhau

32Bấy giờ cộng đồng tín hữu đông đảo ấy đồng tâm hiệp ý với nhau, không ai xem bất kỳ những gì mình có là của riêng, nhưng họ xem mọi vật là của chung. 33Với quyền năng lớn lao, các sứ đồ làm chứng về sự sống lại của Ðức Chúa Jesus, và họ thảy đều nhận được ân phước dồi dào. 34Trong vòng họ, chẳng ai thiếu thốn gì, vì có nhiều chủ đất hoặc chủ nhà đã bán đất hoặc nhà của họ, lấy tiền bán được đem 35đặt nơi chân các sứ đồ, để phân phát cho mỗi người tùy theo nhu cầu.
36Có một người Lê-vi kia sinh ở Chíp-rơ, tên là Giô-sép, mà các sứ đồ gọi là Ba-na-ba, có nghĩa là “Con của Sự An Ủi.” 37Ông có một cánh đồng; ông bán cánh đồng ấy, lấy tiền, và đem đặt nơi chân các sứ đồ.