11

1Ơ čar Liƀan, pŏk bĕ ƀăng bhă ih čiăng kơ pui dưi ƀơ̆ng ana kyâo sêdar ih!
  2Čŏk hia bĕ, Ơ kyâo čiprơ, kyuadah ana kyâo Sêdar êbuh leh,
   kyuadah kyâo siam rai leh!
  Čŏk hia bĕ, Ơ ana kyâo sen čar Basan,
   kyuadah arăng druôm leh kmrơ̆ng kpal!
  3Hmư̆ bĕ klei phung mgăt biăp čŏk hia,
   kyuadah kdrăn rơ̆k siam diñu rai leh!
  Hmư̆ bĕ asăp êmông gu gruh,
   kyuadah klei mgao êa krông Yurdan rai leh!

Phung Mgăt Ƀiăp Hơăi Mang

4Aê Diê kâo lač: “Brei ih kiă jih jang biăp arăng čuăn leh kơ klei koh mdjiê nao ƀơ̆ng rơ̆k. 5Phung blei digơ̆ koh mdjiê digơ̆ leh anăn arăng amâo yap diñu soh ôh; phung čhĭ digơ̆ lač, ‘Mpŭ mni kơ Yêhôwa, kâo jing mdrŏng leh,’ leh anăn phung mgăt biăp digơ̆ pô amâo pap kơ digơ̆ ôh. 6Kyuadah kâo amâo srăng lŏ pap kơ phung dôk hlăm čar anei ôh,” Yêhôwa lač, “Nĕ anei, kâo srăng brei grăp čô mnuih lĕ hlăm kngan pô riêng gah gơ̆ leh anăn hlăm kngan mtao gơ̆. Diñu srăng ktư̆ juă lăn čar, leh anăn kâo amâo srăng bi mtlaih digơ̆ ôh mơ̆ng kngan diñu.”
7Snăn kâo kiă jih jang biăp arăng čuăn kơ klei koh mdjiê nao ƀơ̆ng rơ̆k, phung biăp arăng ktư̆ juă. Kâo mă dua ƀĕ giê knuăk, sa ƀĕ kâo pia Klei Pap leh anăn sa ƀĕ mkăn Klei Bi Mguôp. Leh anăn kâo kiă biăp. 8Hlăm sa mlan kâo bi rai leh tlâo čô mgăt biăp. Ƀiădah mngăt kâo amâo thâo gĭr hŏng diñu ôh, leh anăn msĕ mơh mngăt diñu bi êmut kơ kâo. 9Snăn kâo lač, “Kâo amâo srăng kiă diih ôh. Ya mnơ̆ng pioh kơ klei djiê, brei ñu djiê; ya mnơ̆ng pioh kơ klei bi rai, brei ñu rai. Bi phung adôk, brei diñu kĕ ƀơ̆ng kđeh hdơ̆ng diñu.” 10Kâo mă giê knuăk kâo pia Klei Pap leh anăn kâo bi joh ñu, čiăng bi rai klei kâo bi mguôp leh hŏng jih jang phung ƀuôn sang. 11Snăn ñu rai leh hlăm hruê anăn, leh anăn phung arăng bi knap leh kăp dlăng kơ kâo, thâo leh klei anăn jing klei Yêhôwa blŭ. 12 Leh anăn kâo lač kơ diñu, “Tơdah diih mĭn djŏ, brei klei mưn kơ kâo; ƀiădah tơdah amâo djŏ ôh, pioh klei mưn anăn.” Snăn diñu mkă ênoh mưn kơ kâo tlâo pluh klŏ prăk. 13Leh anăn Yêhôwa lač kơ kâo, “Dlăm prăk anăn kơ pô mmai gŏ” — ênoh yuôm diñu mkă kơ kâo leh. Snăn kâo mă tlâo pluh klŏ prăk anăn leh anăn dlăm hlăm sang Yêhôwa pioh kơ pô mmai gŏ. 14Leh anăn kâo bi joh giê knuăk tal dua pia Klei Bi Mguôp, čiăng bi rai klei jing ayŏng adei phung Yuđa hŏng phung Israel.
15Leh anăn Yêhôwa lŏ lač kơ kâo, “Lŏ mă mnơ̆ng sa čô mgăt biăp mluk yua. 16Kyuadah nĕ anei, kâo srăng mdưm sa čô mgăt biăp hlăm čar amâo srăng uêñ kơ biăp luč leh, amâodah duah biăp hiu rưng, amâodah bi hlao biăp êka, amâodah čiêm biăp suaih ôh, ƀiădah ƀơ̆ng kđeh biăp êmŏng, leh anăn hiêk wăt kčuôp jơ̆ng digơ̆.
  17Knap mñai yơh kơ mgăt biăp hơăi mang,
   pô lui hĕ biăp!
  Brei đao gưm koh ti păl ñu leh anăn ti ală hnuă ñu!
   Brei păl ñu krô hĕ
   leh anăn ală hnuă ñu bum mơh!”

11

  1Hỡi Li-băng, hãy mở toang các cổng của ngươi,
  Ðể lửa có thể thiêu rụi rừng cây bá hương của ngươi.
  2Hãy khóc thét lên, hỡi cây tùng,
  Vì cây bá hương đã ngã xuống rồi;
  Những cây to lớn đều bị hủy diệt.
  Hãy khóc thét lên đi, hỡi những cây sồi ở Ba-san,
  Vì rừng rậm đầy những cây cao lớn đã bị đốn trụi.
  3Hãy nghe tiếng khóc não nề của bọn chăn chiên,
  Vì đồng cỏ của chúng đã bị hủy phá;
  Hãy nghe tiếng rống của các sư tử tơ,
  Vì những nơi cung cấp con mồi cho chúng trong Thung Lũng Giô-đanh đã bị tàn phá tan tành.

Hai Gậy Chăn Bầy

4CHÚA, Ðức Chúa Trời của tôi, phán thế nầy, “Hãy chăn dắt đàn chiên sắp bị đem đi làm thịt. 5Những kẻ mua chúng để đem giết thịt không cảm thấy có tội lỗi gì khi làm như vậy, trong khi những kẻ bán chúng lại nói, ‘Cảm tạ CHÚA, tôi được giàu rồi!’ Còn những kẻ chăn giữ chúng thì không mảy may thương xót chúng. 6Thật vậy, Ta sẽ không thương xót dân trong xứ nầy nữa,” CHÚA phán, “Ta sẽ trao mỗi người cho kẻ lân cận nó và vua nó. Bọn đó sẽ bóc lột mọi người trong xứ, và Ta sẽ không cứu chúng khỏi tay bọn đó.”
7Vậy tôi chăn dắt đàn chiên sắp bị đem đi làm thịt và đặc biệt quan tâm đến những con khốn khổ trong bầy. Tôi lấy cho tôi hai cây gậy để chăn bầy. Tôi đặt tên cho một gậy là Tốt Ðẹp và gậy kia là Ràng Buộc, rồi tôi chăn dắt đàn chiên. 8Trong một tháng, tôi cho ba người chăn nghỉ việc, vì linh hồn tôi ngán ngẩm chúng, và chúng cũng chán ghét tôi. 9Bấy giờ tôi nói, “Ta sẽ không chăn dắt các ngươi nữa. Con nào sắp chết, ta sẽ để cho chết; con nào mất, ta sẽ để cho mất; và con nào còn lại, ta sẽ để cho con nầy ăn thịt con kia.” 10Sau đó, tôi lấy cây gậy tên Tốt Ðẹp và chặt đứt nó ra, để có thể hủy bỏ giao ước tôi đã lập với mọi người. 11Thế là ngày hôm đó giao ước ấy bị hủy bỏ. Bấy giờ những con khốn khổ trong bầy, vốn nghe lời tôi hướng dẫn, nhận biết rằng đó là lời của CHÚA. 12Tôi nói với bọn lái buôn, “Nếu các người cho là phải, xin trả cho tôi tiền công chăn bầy; còn không, cũng không sao.” Vậy chúng cân và trả cho tôi ba mươi miếng bạc.
13Kế đó, CHÚA phán với tôi, “Hãy quăng số bạc đó cho thợ gốm, số bạc đáng kể mà chúng đã đánh giá Ta.” Vậy tôi lấy ba mươi miếng bạc đó và ném chúng vào nhà CHÚA để người ta trao cho thợ gốm. 14Sau đó tôi chặt đứt cây gậy kia của tôi, cây gậy tên Ràng Buộc, để có thể dứt tình anh em giữa Giu-đa và I-sơ-ra-ên.
15Bấy giờ CHÚA phán với tôi, “Hãy mang các dụng cụ chăn bầy vào và đóng vai một kẻ chăn vô dụng. 16Vì này, Ta sẽ dấy lên một kẻ chăn bầy trong xứ. Nó sẽ không quan tâm gì đến những con chiên sắp chết, không chăm sóc những con chiên con, không chữa trị những con bị thương, và không nuôi dưỡng những con khỏe mạnh, nhưng nó sẽ ăn thịt những con mập mạnh trong bầy; ngay cả móng của chúng nó cũng xẻ luôn ra gặm.
  17Khốn thay cho kẻ chăn bầy vô dụng,
  Kẻ bỏ mặc đàn chiên sống chết chẳng màng!
  Nguyện gươm sẽ chặt đứt gân tay nó và đâm thủng mắt phải nó;
  Nguyện cánh tay nó sẽ trở nên khô đét và mắt phải nó sẽ bị mù hoàn toàn.”