5

Yêsu Bi Hlao Mnuih Ti Êa Ênao

1Êdei kơ klei anăn mâo hruê knăm phung Yuđa, Yêsu đĭ nao kơ ƀuôn Yêrusalem. 2Hlăm ƀuôn Yêrusalem giăm ƀăng jang Biăp mâo sa êa ênao mâo êma bĭt adring, hlăm klei Hêbrơ arăng pia Ƀêtesđa. 3Ti jih adring anăn mâo lu mnuih ruă duam dôk đih, đa êwiên, đa bum ală, đa đŭt jơ̆ng, đa khăng jơ̆ng kngan. 5Mâo tinăn sa čô êkei ruă êjai tlâo pluh sa păn thŭn leh. 6Tơdah Yêsu ƀuh ñu leh anăn thâo leh kơ mnuih anăn dôk đih tinăn sui thŭn leh, Yêsu lač kơ ñu, “Ih čiăng kơ hlao mơ̆?” 7Mnuih ruă anăn lŏ wĭt lač, “Ơ Khua ơi, kâo amâo mâo mnuih ôh dưm kâo hlăm êa ênao êjai êa ktlăk; ƀiădah êjai kâo čiăng trŭn lŏ mâo mnuih mkăn trŭn hĕ êlâo hĭn ti kâo.” 8Yêsu lač kơ ñu, “Kgŭ bĕ, mă ba añuê buk ih leh anăn êbat.” 9Mtam mnuih anăn hlao yơh. Ñu mă ba añuê buk ñu leh anăn êbat.
 Hruê anăn jing hruê sabat.
10 Snăn phung Yuđa lač kơ mnuih mrâo hlao anăn, “Hruê anei jing hruê sabat, amâo bhiăn ôh kơ ih klam ba añuê buk ih.” 11Ƀiădah êkei anăn lŏ wĭt lač kơ diñu, “Pô bi hlao kâo lač kơ kâo, ‘Mă ba añuê buk ih leh anăn êbat.’ ” 12Diñu êmuh kơ gơ̆, “Hlei lač kơ ih, ‘Klam ba añuê buk ih leh anăn êbat?’ ” 13Mnuih mrâo hlao anăn amâo thâo kral ôh hlei pô bi hlao gơ̆, kyuadah Yêsu dêč đuĕ leh, kyuadah mâo phung lu tinăn. 14Sui ƀiă tinăn Yêsu ƀuh êkei anăn hlăm sang kkuh mpŭ, leh anăn lač kơ gơ̆, “Nĕ anei, ih hlao leh. Đăm lŏ ngă soh ôh, huĭdah klei kjham hĭn srăng truh kơ ih.” 15Êkei anăn đuĕ nao hưn kơ Phung Yuđa, Yêsu yơh bi hlao gơ̆ leh. 16Phung Yuđa dơ̆ng ngă jhat kơ Yêsu kyua Ñu bi hlao leh mnuih anăn hruê sabat. 17Ƀiădah Yêsu lŏ wĭt lač kơ diñu, “Ama kâo ăt mă bruă nanao, leh anăn kâo mă bruă msĕ mơh.” 18Kyua klei anăn, phung Yuđa duah ktang hĭn čiăng bi mdjiê Ñu, kyuadah amâo djŏ knŏng Ñu gao hruê sabat ôh, ƀiădah msĕ mơh Ñu pia Aê Diê jing Ama Ñu, Ñu bi mđơr Ñu pô hŏng Aê Diê.

Klei Kơhưm Anak Aê Diê

19Yêsu lač kơ digơ̆, “Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, Anak amâo dưi ngă sa mta bruă tui si Ñu pô čiăng ôh, ƀiădah knŏng msĕ si Ñu ƀuh Ama ngă. Kyuadah ya bruă Ama ngă, Anak ngă msĕ mơh. 20Kyuadah Ama khăp kơ Anak, leh anăn bi êdah kơ Anak jih jang bruă Ñu ngă. Leh anăn Ñu srăng bi êdah kơ Anak bruă prŏng hĭn kơ anei, čiăng bi kngăr diih. 21Kyuadah msĕ si Ama bi kbiă lŏ hdĭp phung djiê leh anăn brei klei hdĭp kơ diñu, msĕ snăn mơh Anak brei klei hdĭp kơ hlei pô gơ̆ čiăng. 22Ama amâo phat kđi kơ arăng ôh, ƀiădah Ñu jao jih klei phat kđi kơ Anak Ñu, 23čiăng kơ jih jang srăng mpŭ kơ Anak, msĕ si diñu mpŭ kơ Ama. Hlei pô amâo mpŭ kơ Anak, kăn mpŭ rei kơ Ama, Pô tiŏ hriê gơ̆. 24Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, hlei pô hmư̆ klei kâo blŭ leh anăn đăo kơ Pô tiŏ hriê kâo, mâo leh klei hdĭp hlŏng lar; ñu amâo srăng truh kơ klei phat kđi ôh, ƀiădah ñu găn leh klei djiê nao kơ klei hdĭp.
25Kâo lač kơ ih klei sĭt nik, mông giăm truh leh anăn truh leh, tơdah phung djiê srăng hmư̆ asăp Anak Aê Diê; leh anăn phung hmư̆ asăp gơ̆ srăng hdĭp. 26Kyuadah msĕ si Ama mâo klei hdĭp hlăm Ñu pô, msĕ snăn mơh Ñu brei leh kơ Anak mâo klei hdĭp hlăm gơ̆ pô. 27Leh anăn Ama brei kơ Anak klei dưi phat kđi, kyuadah gơ̆ jing Anak Mnuih. 28Đăm bi kngăr ôh kyua klei anăn; kyuadah mông srăng truh tơdah jih jang phung dôk hlăm msat srăng hmư̆ asăp gơ̆ 29 leh anăn kbiă. Hlei pô ngă jăk srăng kbiă lŏ hdĭp kơ klei hdĭp, ƀiădah hlei pô ngă jhat srăng kbiă lŏ hdĭp kơ klei phat kđi.”

Klei Hưn Bi Sĭt kơ Yêsu

30“Hŏng klei dưi kâo pô kâo amâo dưi ngă sa mta klei ôh. Kâo phat kđi tui si kâo hmư̆; leh anăn klei kâo phat kđi jing kpă, kyuadah kâo amâo duah klei kâo pô čiăng ôh, ƀiădah tui si klei pô tiŏ hriê kâo čiăng. 31Tơdah kâo hưn bi sĭt kơ kâo pô, klei kâo hưn amâo jing sĭt ôh. 32Mâo sa čô mkăn hưn bi sĭt kơ kâo, leh anăn kâo thâo klei ñu hưn bi sĭt kơ kâo jing klei sĭt nik. 33Diih tiŏ nao leh arăng êmuh Y-Yôhan, leh anăn gơ̆ hưn bi sĭt kơ klei sĭt nik. 34Amâo djŏ ôh kâo čiăng mâo klei hưn bi sĭt mơ̆ng mnuih; ƀiădah kâo lač klei anăn čiăng kơ diih dưi tlaih. 35Y-Yôhan jing pui kđen dôk trơ̆ng leh anăn mtrang mngač, leh anăn diih čiăng dôk mơak bhiâo hlăm klei mngač gơ̆. 36Ƀiădah klei hưn bi sĭt kâo mâo jing prŏng hĭn kơ klei Y-Yôhan hưn; kyuadah bruă Ama brei kâo bi leh, bruă anăn kâo mă ară anei hin, hưn bi sĭt kơ kâo kơ Ama tiŏ hriê kâo leh. 37Leh anăn Ama, Pô tiŏ hriê kâo leh, hưn bi sĭt kơ kâo. Diih amâo tuôm hmư̆ asăp Ñu ôh, kăn diih tuôm ƀuh rup asei mlei Ñu rei; 38leh anăn klei Ñu blŭ amâo dôk hlăm diih ôh, kyuadah diih amâo đăo ôh kơ Pô Ñu tiŏ hriê leh. 39Diih ksiêm bi nik Klei Aê Diê Blŭ, kyuadah diih mĭn hlăm anăn diih mâo klei hdĭp hlŏng lar. Klei Aê Diê Blŭ anăn yơh hưn bi sĭt kơ kâo; 40ƀiădah diih hngah amâo čiăng hriê kơ kâo ôh čiăng mă tŭ klei hdĭp. 41Kâo amâo mă tŭ ôh klei guh kơang mơ̆ng phung mnuih. 42Ƀiădah kâo thâo diih amâo mâo klei Aê Diê khăp dôk hlăm diih ôh. 43Kâo hriê leh hlăm anăn Ama kâo, leh anăn diih amâo jum kâo ôh; tơdah pô mkăn hriê hlăm anăn gơ̆ pô, diih srăng jum gơ̆. 44Si diih dưi đăo, tơdah diih mă tŭ klei guh kơang hdơ̆ng diih pô, leh anăn amâo duah ôh klei guh kơang kbiă hriê mơ̆ng Aê Diê mâo knŏng sa čô? 45Đăm mĭn ôh kâo srăng kčŭt kơ diih kơ Ama. Y-Môis yơh jing pô kčŭt kơ diih, kơ ñu anăn diih čang hmăng. 46Tơdah diih đăo leh kơ Y-Môis, diih srăng đăo kơ kâo msĕ mơh, kyuadah ñu čih leh klei djŏ kơ kâo. 47Ƀiădah tơdah diih amâo đăo ôh kơ klei ñu čih, si diih srăng đăo kơ klei kâo blŭ lĕ?”

5

Chúa Trở Lại Giê-ru-sa-lem và Chữa Lành Một Người Bịnh

1Sau những việc đó có một lễ của người Do-thái, Ðức Chúa Jesus đi lên Giê-ru-sa-lem. 2Thuở ấy tại Cổng Chiên ở Giê-ru-sa-lem có một cái ao, tiếng Hê-bơ-rơ gọi là Bết-xa-tha; quanh ao có năm vòm hành lang. 3Dưới các vòm hành lang ấy có nhiều người bịnh tật, đui mù, què quặt, và bại xuội nằm la liệt. [Họ ở đó chờ nước động, 4vì họ tin rằng thỉnh thoảng có một thiên sứ của Chúa ngự xuống ao, quậy cho nước động, và khi nước động, ai xuống ao trước hết, bất kỳ mắc bịnh gì, sẽ được chữa lành.]
5Tại đó có một người đã bị bịnh ba mươi tám năm. 6Ðức Chúa Jesus thấy ông nằm đó và biết ông ở đó đã lâu, Ngài hỏi ông, “Ngươi muốn được lành không?”
7Người bịnh trả lời Ngài, “Thưa Ngài, tôi không có ai giúp đem xuống ao mỗi khi nước động; trong khi tôi lê thân đến ao, đã có người khác bước xuống trước tôi rồi.”
8Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Hãy đứng dậy, vác chõng của ngươi và bước đi.” 9Ngay lập tức người bịnh được lành; ông đứng dậy vác chõng của ông và bước đi.
 Nhưng hôm ấy lại nhằm vào ngày Sa-bát,
10vì thế người Do-thái nói với người được chữa lành, “Hôm nay là ngày Sa-bát, ông không được phép vác chõng của ông.”
11Nhưng ông trả lời họ, “Người chữa lành tôi đã bảo tôi, ‘Hãy vác chõng của ngươi và bước đi.’
12Họ hỏi ông, “Ai là người đã bảo ông vác chõng của ông và bước đi?”
13Nhưng người được chữa lành không biết người đã chữa lành cho mình là ai, vì Ðức Chúa Jesus đã bước sang chỗ khác, và nơi đó rất đông người.
14Sau đó Ðức Chúa Jesus gặp ông trong đền thờ, Ngài nói với ông, “Này, ngươi đã được lành; đừng phạm tội nữa, kẻo có điều tệ hơn trước xảy đến với ngươi.”
15Người ấy đi và báo cho người Do-thái rằng Ðức Chúa Jesus đã chữa lành cho ông. 16Vì cớ đó người Do-thái làm khó dễ Ðức Chúa Jesus và tìm cách giết Ngài, vì Ngài đã làm những việc ấy trong ngày Sa-bát. 17Nhưng Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Cha Ta làm việc cho đến bây giờ, và Ta cũng làm vậy.”
18Vì thế người Do-thái lại càng kiếm mọi cách để giết Ngài, bởi vì không những Ngài vi phạm luật ngày Sa-bát, mà còn gọi Ðức Chúa Trời là Cha Ngài, tức tự cho Ngài ngang hàng với Ðức Chúa Trời.

Quyền của Ðức Chúa Con

19Vì thế Ðức Chúa Jesus cất tiếng và nói với họ, “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, Con chẳng tự mình làm việc gì nếu chẳng thấy Cha làm, vì Cha làm sao, Con làm vậy. 20Vì Cha thương Con nên đã chỉ cho Con mọi việc Cha làm. Cha sẽ còn chỉ cho Con nhiều việc lớn lao hơn nữa, khiến các ngươi phải kinh ngạc. 21Như Cha làm cho người chết sống lại và ban sự sống cho họ thế nào, Con cũng sẽ ban sự sống cho bất cứ ai Con muốn thể ấy. 22Hơn nữa Cha không phán xét ai nhưng đã trao trọn quyền phán xét cho Con, 23để người ta sẽ tôn kính Con như họ đã tôn kính Cha. Ai không tôn kính Con là không tôn kính Cha, Ðấng đã sai Con đến.
24Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, ai nghe lời Ta và tin Ðấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời, thoát khỏi sự phán xét, nhưng đã vượt từ cõi chết mà vào cõi sống.
25Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, giờ sắp đến và bây giờ đã đến, khi người chết sẽ nghe tiếng Con Ðức Chúa Trời, và ai nghe sẽ sống. 26Vì như Cha có sự sống trong Ngài thể nào, Cha cũng đã ban cho Con có sự sống trong Con thể ấy. 27Cha đã trao quyền thực thi phán quyết cho Con, vì Con là Con Người. 28Chớ ngạc nhiên về điều nầy, vì giờ đến, khi mọi kẻ trong mồ mả sẽ nghe tiếng Ngài 29và bước ra. Ai làm điều thiện sẽ sống lại để hưởng sự sống, và kẻ làm điều ác sẽ sống lại để chịu phán xét. 30Ta không thể tự mình làm điều gì. Ta nghe thể nào, Ta phán xét thể ấy, và phán quyết của Ta là công bình, vì Ta không tìm cách làm theo ý riêng mình, nhưng làm theo ý của Ðấng đã sai Ta.”

Chứng Nhân của Chúa

31“Nếu Ta tự làm chứng cho mình, lời chứng ấy khó có giá trị. 32Có người khác làm chứng cho Ta, và Ta biết lời chứng của người ấy về Ta là thật. 33Các ngươi đã phái người đến với Giăng, và ông ấy đã làm chứng cho sự thật. 34Tuy Ta không cần lời chứng của loài người, nhưng Ta nói điều nầy để các ngươi có thể được cứu. 35Ông ấy là ngọn đèn đang cháy và tỏa sáng, các ngươi sẽ vui tạm trong ánh sáng của ông ấy ít lâu. 36Nhưng Ta có một chứng cớ vững mạnh hơn lời chứng của Giăng, đó là những việc Cha giao cho Ta để hoàn tất; những việc Ta thực hiện làm chứng cho Ta rằng Cha đã sai Ta. 37Chính Cha, Ðấng đã sai Ta, đã làm chứng về Ta. Các ngươi chưa hề nghe tiếng Ngài hoặc thấy hình dạng Ngài. 38Lời Ngài không ở trong các ngươi, vì các ngươi không tin Ðấng Ngài đã sai đến. 39Các ngươi nghiên cứu Kinh Thánh vì các ngươi nghĩ rằng trong đó các ngươi có sự sống đời đời; hãy biết rằng Kinh Thánh làm chứng về Ta. 40Thế mà các ngươi không muốn đến với Ta để các ngươi có sự sống!
41Ta không cầu vinh hiển đến từ loài người, 42vì Ta biết các ngươi, các ngươi không có tình yêu của Ðức Chúa Trời ở trong mình. 43Ta nhân danh Cha Ta mà đến, các ngươi không nhận Ta; nếu ai nhân danh mình mà đến, các ngươi sẽ nhận người ấy. 44Làm sao các ngươi có thể tin khi các ngươi chỉ thích vinh danh lẫn nhau, nhưng không tìm kiếm vinh hiển đến từ Ðức Chúa Trời là chân thần duy nhất?
45Ðừng nghĩ rằng Ta sẽ tố cáo các ngươi trước mặt Cha; người tố cáo các ngươi là Mô-sê, người các ngươi đã đặt trọn hy vọng vào. 46Vì nếu các ngươi tin Mô-sê, thì các ngươi hẳn đã tin Ta, vì Mô-sê đã viết về Ta. 47Nhưng nếu các ngươi không tin những gì Mô-sê đã viết, làm sao các ngươi tin những gì Ta nói?”