5

1 Snăn jih jang bruă Y-Salômôn ngă kơ sang Yêhôwa ruê̆ leh. Y-Salômôn ba mŭt mnơ̆ng Y-Đawit ama ñu myơr leh, leh anăn mkăm pioh prăk, mah, leh anăn jih jang čhiên mngan hlăm adŭ pioh ngăn sang Aê Diê.

Y-Salômôn Kkung Ba Hip Hlăm Sang Yang

(I Mtao 8:1-11)

2 Leh anăn Y-Salômôn bi kƀĭn jih jang phung khua mduôn Israel, leh anăn jih jang phung khua kơ găp djuê, phung khua kơ sang ama phung găp djuê Israel hlăm ƀuôn Yêrusalem, čiăng kkung ba hip klei bi mguôp Yêhôwa mơ̆ng ƀuôn Y-Đawit ƀuôn Siôn. 3Jih jang êkei phung Israel bi kƀĭn ti anăp mtao ti klei huă mnăm hlăm mlan tal kjuh. 4Jih jang phung khua mduôn Israel hriê, leh anăn phung Lêwi kkung ba hip. 5Diñu kkung ba hip, sang čhiăm klei bi kƀĭn, leh anăn jih jang čhiên mngan doh jăk hlăm sang čhiăm; phung khua ngă yang leh anăn phung Lêwi kkung ba dŏ anăn. 6Mtao Salômôn leh anăn jih jang phung Israel bi kƀĭn, phung bi kƀĭn leh ti anăp ñu dôk ti anăp hip ngă yang hŏng lu drei biăp leh anăn êmô tơl arăng amâo dưi yap mnơ̆ng anăn ôh. 7Snăn phung khua ngă yang kkung ba hip klei bi mguôp Yêhôwa kơ anôk gơ̆ hlăm Adŭ Doh Jăk Hĭn ti lam sang, hlăm anôk doh jăk hĭn ti gŭ siap rup phung čêrubim. 8Kyuadah rup čêrubim mblang siap digơ̆ ti dlông anôk hip, snăn rup čêrubim jing mnơ̆ng guôm ti dlông hip leh anăn giê kkung gơ̆. 9Giê kkung anăn dlông đei tơl arăng ƀuh êđŭk gơ̆ mơ̆ng anôk doh jăk ti anăp adŭ doh jăk ti lam; ƀiădah mơ̆ng êngao arăng amâo dưi ƀuh dŏ anăn ôh; leh anăn digơ̆ dôk tinăn truh kơ hruê anei. 10 Hlăm hip anăn amâo mâo mnơ̆ng ôh knŏng dua boh mdhă Y-Môis dưm tinăn êjai diñu dôk ti čư̆ Hôrep, tinăn Yêhôwa ngă leh sa klei bi mguôp hŏng phung ƀuôn sang Israel hlăk diñu kbiă mơ̆ng čar Êjip. 11Tơdah phung khua ngă yang kbiă mơ̆ng Anôk Doh Jăk (kyuadah jih jang phung khua ngă yang dôk tinăn bi doh jăk leh diñu pô, amâo uêñ kơ hlei êpul diñu jing; 12leh anăn jih phung Lêwi mmuñ, mâo Y-Asap, Y-Hêman, leh anăn Y-Yêduthun, phung anak êkei diñu leh anăn phung ayŏng adei diñu, hơô ao kbuă điêt aruăt, djă dang, brô̆, leh anăn đĭng kliă, dôk tĭng nah ngŏ knưl mbĭt hŏng sa êtuh dua pluh čô khua ngă yang jing phung ayŭ ki; 13 leh anăn jing bruă kơ phung ayŭ ki leh anăn phung mmuñ brei arăng hmư̆ diñu bi mguôp hlăm klei hơêč hmưi leh anăn bi mni kơ Yêhôwa), leh anăn tơdah arăng hmư̆ asăp mmuñ mbĭt hŏng asăp ki, dang, leh anăn mnơ̆ng kưt mmuñ mkăn, êjai bi mni mpŭ mni kơ Yêhôwa,
  “Kyuadah ñu jing jăk,
   kyuadah klei ñu khăp sĭt suôr dôk nanao hlŏng lar.”
 Sang Yêhôwa bŏ hŏng knam,
14tơl phung khua ngă yang amâo dưi dôk mă bruă diñu ôh kyua knam anăn; kyuadah klei guh kơang Yêhôwa bi bŏ leh sang Aê Diê.

5

Rương Giao ước vào Đền thờ

1Sa-lô-môn hoàn tất các chương trình kiến thiết Đền thờ Chúa. Vua đem vào Đền thờ các bảo vật mà vua cha là Đa-vít đã biệt riêng cho Chúa gồm bạc, vàng và các khí dụng và cất vào kho tàng Đền thờ.
2Sa-lô-môn triệu tập tại thủ đô các cấp lãnh đạo Y-sơ-ra-ên: từ các đại tộc trưởng, các tộc trưởng đến các trưởng lão, để rước Rương của Chúa Hằng Hữu từ Si-ôn, thành của Đa-vít, lên Đền thờ. 3Tất cả nam đinh đều tập họp quanh cung vua để cử hành đại lễ vào tháng 10 đúng vào dịp lễ Đền tạm hàng năm. 4,5Trước sự chứng kiến của các cấp lãnh đạo, người Lê-vi nâng Rương lên. Các thầy tế lễ cùng họ khiêng Rương khỏi Đền tạm, luôn với các khí dụng thánh. 6Vua Sa-lô-môn và cả nhân dân đang họp quanh vua trước Rương giao ước dâng vô số cừu và bò làm tế lễ, không ai đếm nổi. 7Thầy tế lễ đem Rương giao ước của Chúa Hằng Hữu đặt vào ngay trung tâm Đền thờ, gọi là Nơi chí thánh, dưới cánh các chê-ru-bim. 8Các chê-ru-bim dang cánh phủ trên Rương và đòn khiêng. 9Đòn khiêng dài nên đứng tại trung tâm Nơi thánh có thể thấy hai đầu mút đòn nhô ra, dù người đứng bên ngoài không trông thấy được. Rương còn tại đó cho đến ngày nay. 10Trong rương chỉ có hai bảng đá mà Mai-sen đã khắc tại Hô-rếp, là nơi Chúa Hằng Hữu lập giao ước với dân Y-sơ-ra-ên khi đem họ ra khỏi Ai-cập.
11,12Sau khi các thầy tế lễ đã dọn mình thánh sạch, tất cả đều tham gia vào cuộc lễ hằng ngày họ giữ những nhiệm vụ khác nhau. Ca đoàn Lê-vi hát xướng vô cùng du dương ca ngợi Chúa khi các thầy tế lễ ra khỏi Nơi chí thánh. Ca đoàn gồm có A-sáp, Hê-man, Giê-đa-thung cùng anh em và con cái họ, tất cả đều mặc lễ phục bằng vải gai mịn, sắp hàng đứng tại phía đông bàn thờ. Ngoài ra còn có dàn nhạc gồm 120 thầy tế lễ hòa tấu bằng kèn, chập chõa, đàn lia và thụ cầm. 13,14Ca đoàn và dàn nhạc cùng nhau ca tấu để tụng ngợi và cảm tạ Chúa Hằng Hữu. Các bài ca hòa với tiếng kèn sang sảng, tiếng chập chõa vang rền, cùng thanh âm réo rắt du dương của các nhạc khí khác. Đại đề của tất cả chương trình ca nhạc là "Chúa Hằng Hữu thật là toàn thiện! Đức nhân từ Ngài thể hiện đời đời!" Ngay lúc ấy, vinh quang Chúa Hằng Hữu, như đám mây sáng rực, giáng xuống bao phủ và đầy dẫy Đền thờ, đến nỗi các thầy tế lễ không thể tiếp tục phục vụ trong Đền thờ được nữa.