10

Tô-la

1Toâq vớt Abi-maléc cuchĩt, Tô-la con samiang Puah, châu Dô-dô, tỗp I-sacar ễn toâq rachuai tỗp I-sarel. Án ỡt tâng vil Samir tâng máh dũal cớp cóh cruang Ep-ra-im. 2Án cỡt sốt tỗp I-sarel bar chít la pái cumo; vớt ki án cuchĩt, cớp noau tứp án pỡ vil Samir.

Yai

3Vớt Tô-la cuchĩt, Yai tễ cruang Ki-liat ễn cỡt sốt cũai I-sarel bar chít la bar cumo. 4Án bữn con samiang pái chít náq dốq ỡt aséh dễn pái chít lám. Tỗp alới cỡt sốt tâng pái chít vil tâng cruang Ki-liat. Toau tangái nâi bữn cũai noâng dŏq máh vil ki la vil Yai. 5Toâq Yai cuchĩt, noau tứp án pỡ vil Camôn.

Yêp-thê

6Muoi trỗ ễn cũai I-sarel táq lôih chóq Yiang Sursĩ alới na cucốh sang máh yiang Ba-al cớp At-taret, cớp yiang tỗp Si-ri, Sadôn, Mô-ap, Amôn, cớp Phi-li-tin. Tỗp alới calỡih táh Yiang Sursĩ, cớp tỡ ễq sang noâng án. 7Yuaq ngkíq, Yiang Sursĩ cutâu mứt chóq cũai I-sarel. Chơ án yỗn tỗp Phi-li-tin cớp tỗp Amôn bữn chíl riap alới. 8Muoi chít tacual cumo cũai Amô-rit padâm cũai I-sarel ỡt tâng cutễq tỗp alới ndỡm, yáng angia mandang loŏh crỗng Yôr-dan tâng cruang Ki-liat. 9Cớp tỗp Amôn clong crỗng Yôr-dan pỡq chíl máh tỗp Yuda, Ben-yamin, cớp Ep-ra-im. Yuaq ngkíq, cũai I-sarel ma ramóh túh coat lứq.
10Chơ tỗp I-sarel arô sễq Yiang Sursĩ chuai; alới pai neq: “Nheq tữh tỗp hếq khoiq táq lôih chóq Ncháu chơ. Tỗp hếq khoiq nguai tễ Yiang Sursĩ, la Yiang hếq, chơ pỡq cucốh sang máh yiang Ba-al.”
11Yiang Sursĩ ta‑ỡi tỗp I-sarel neq: “Cứq khoiq chuai tỗp anhia yỗn vớt tễ talang atĩ máh tỗp neq: Ê-yip-tô, Amô-rit, Amôn, Phi-li-tin, 12Sadôn, A-maléc, cớp Ma-ôn, la cỗ anhia arô cứq yỗn toâq chuai bo alới padâm anhia. 13Ma tỗp anhia noâng nguai tễ cứq, cớp pỡq cucốh sang máh yiang canŏ́h. Ngkíq cứq tỡ ễq chuai noâng tỗp anhia. 14Toâq anhia ramóh túh coat, cóq anhia arô sễq tễ yiang anhia rưoh ki ễn; yỗn yiang ki toâq chuai tỗp anhia yỗn vớt tễ túh coat.”
15Ma cũai I-sarel rasễq níc tễ Yiang Sursĩ neq: “Nheq tữh hếq khoiq táq lôih chóq anhia chơ; sễq anhia táq chóq tỗp hếq puai pahỡm anhia sâng yoc. Ma sễq anhia chuai tỗp hếq bữn vớt tâng tangái nâi, la péq toâp!”
16Yuaq ngkíq, nheq tữh alới cachian táh máh yiang canŏ́h, tỡ ễq sang noâng. Chơ alới píh loah sang toam Yiang Sursĩ. Ngkíq Yiang Sursĩ sâng túh lứq tâng mứt, cỗ án hữm ŏ́c túh coat tỗp alới.
17Chơ tahan tỗp Amôn thrũan ễ loŏh chíl; alới pỡq ayứng dỗn pỡ cruang Ki-liat. Ma tỗp I-sarel rôm parnơi pỡ vil Mit-ba, cruang Ki-liat. 18Tâng ntốq ki máh cũai sốt tễ dũ tỗp I-sarel manoaq blớh manoaq neq: “Cũai aléq ayông tỗp hái mut chíl tỗp Amôn, cũai ki têq cỡt sốt dũ náq cũai tâng cruang Ki-liat nâi.”

10

Hai quan xét Thô-la và Giai-rơ

1Sau A-bi-mê-léc, có Thô-la, con trai Phu-a, cháu Đô-đô, thuộc bộ tộc Y-sa-ca, nổi dậy giải cứu Y-sơ-ra-ên. Ông sống tại Sa-mia trong vùng đồi núi Ép-ra-im, 2và làm quan xét của dân Y-sơ-ra-ên trong hai mươi ba năm. Ông qua đời và được chôn tại Sa-mia.
3Sau đó có Giai-rơ, người Ga-la-át, làm quan xét của dân Y-sơ-ra-ên trong hai mươi hai năm. 4Ông có ba mươi con trai, mỗi người cưỡi một con lừa, và cai trị một thành. Ba mươi thành đó thuộc địa phận Ga-la-át, ngày nay gọi là Ha-vốt Giai-rơ. 5Giai-rơ qua đời và được chôn tại Kha-môn.

Y-sơ-ra-ên bị dân Phi-li-tin và dân Am-môn hà hiếp

6Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác dưới mắt Đức Giê-hô-va. Họ phụng sự thần Ba-anh và Át-tạt-tê, cùng các thần của dân A-ram, các thần của dân Si-đôn, các thần của dân Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ từ bỏ Đức Giê-hô-va, không phụng sự Ngài. 7Cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi bùng lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay người Phi-li-tin và người Am-môn. 8Kể từ năm đó, hai dân tộc nầy hà hiếp và chà đạp dân Y-sơ-ra-ên. Những người Y-sơ-ra-ên ở bên kia sông Giô-đanh trong vùng Ga-la-át, thuộc dân A-mô-rít, cũng bị họ hà hiếp và chà đạp trong mười tám năm. 9Dân Am-môn còn vượt qua sông Giô-đanh, tiến đánh Giu-đa, Bên-gia-min, và nhà Ép-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên lâm vào cảnh khốn cùng.
10Bấy giờ, dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu Đức Giê-hô-va rằng: “Chúng con phạm tội cùng Chúa, vì đã từ bỏ Đức Chúa Trời chúng con và phụng sự các thần Ba-anh.” 11Nhưng Đức Giê-hô-va phán với dân Y-sơ-ra-ên rằng: “Chẳng phải Ta đã giải cứu các con khỏi dân Ai Cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, và dân Phi-li-tin sao? 12Lại khi dân Si-đôn, dân A-ma-léc, và dân Ma-ôn hà hiếp các con thì các con có kêu cầu Ta và Ta đã giải cứu các con khỏi tay chúng. 13Nhưng các con đã lìa bỏ Ta, phụng sự các thần khác, vì thế Ta không giải cứu các con nữa. 14Hãy đi kêu cầu những thần mà các con đã chọn để chúng giải cứu các con trong cơn hoạn nạn!” 15Dân Y-sơ-ra-ên thưa với Đức Giê-hô-va: “Chúng con đã phạm tội! Xin Chúa đãi chúng con theo điều Chúa cho là tốt lành, nhưng bây giờ xin Chúa giải cứu chúng con!” 16Họ dẹp bỏ các tà thần, rồi trở lại phụng sự Đức Giê-hô-va. Lòng Ngài đau buồn về sự khốn khổ của dân Y-sơ-ra-ên.
17Dân Am-môn tập hợp lại và đóng trại trong đất Ga-la-át. Dân Y-sơ-ra-ên cũng họp lại và đóng trại tại Mích-pa. 18Dân chúng và những nhà lãnh đạo của Ga-la-át hỏi nhau rằng: “Ai là người lãnh đạo cuộc tiến quân đánh dân Am-môn? Người đó sẽ làm thủ lĩnh trên toàn dân Ga-la-át.”