8

Đem Rương giao ước vào Đền thờ

1Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão Y-sơ-ra-ên - trưởng các đại tộc và trưởng các gia tộc - họp tại Giê-ru-sa-lem để thỉnh Rương giao ước của Chúa từ Si-ôn, thành Đa-vít lên Đền thờ. 2Vào dịp người Y-sơ-ra ên đến dự lễ tháng Ê-tha-nim tức tháng bảy, 3trước sự hiện diện của các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, các thầy tế lễ khiêng Rương giao ước lên Đền thờ. 4Các thầy tế lễ người Lê-vi còn đem theo cả Đền tạm và các dụng cụ thánh trong Đền tạm. 5Nhân dân Y-sơ-ra-ên đến dự lễ đứng quanh vua Sa-lô-môn, trước Rương giao ước, cùng dâng tế vô số cừu và bò. 6Các thầy tế lễ đem Rương giao ước của Chúa vào đặt trong Nơi chí thánh, dưới cánh chê-ru-bim. 7Hai chê-ru-bim có cánh dang ra che phủ bên trên Rương và đòn khiêng. 8Đòn khiêng rất dài, nên từ nơi thánh trước Nơi chí thánh có thể trông thấy đầu cây đòn, nhưng từ bên ngoài không thấy được. Các đòn khiêng nay vẫn còn tại đó. 9Lúc ấy trong Rương chỉ có hai bảng đá do Mai-sen đặt vào lúc còn ở núi Hô-rếp, khi Chúa kết ước với người Y-sơ-ra-ên sau khi họ rời Ai-cập.
10Khi các thầy tế lễ vừa ra khỏi Nơi Chí Thánh, mây tràn vào Đền thờ Chúa Hằng Hữu, 11nên các vị ấy không thể tiếp tục đứng lại hành lễ. Vinh quang của Chúa tràn ngập Đền thờ. 12Sa-lô-môn kính cẩn nói: "Chúa có phán; 'Ngài ngự nơi tối tăm dày đặc.’ 13Nhưng tôi có cất cái Đền làm nơi Ngài ở, một nơi để Ngài ngự đời đời."
14Rồi vua quay lại, chúc phước lành cho dân trong khi mọi người đều đứng. 15Vua nói: "Ngợi khen Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, Đấng đã thực hiện lời Ngài hứa với Đa-vít, cha ta, vì Chúa có nói: 16“Từ ngày đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, Ta không chọn nơi nào trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên để dựng Đền thờ cho danh Ta, nhưng ta chọn Đa-vít cai trị dân Ta.' 17Đa-vít, cha Ta muốn cất một Đền thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. 18Nhưng Chúa nói với Đa-vít: Ta biết con muốn cất một Đền thờ cho danh Ta; dù ý muốn ấy là phải, 19nhưng con của con mới là người thực hiện công tác ấy, chứ không phải con.' 20Bây giờ Chúa làm điều Ngài hứa, vì nay ta lên kế vị cha ta, và ta vừa cất xong một Đền thờ cho Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên. 21Trong Đền thờ, ta có chuẩn bị nơi đặt Rương giao ước - giao ước Chúa Hằng Hữu đã lập với tổ tiên ta chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi Ai-cập."

Sa-lô-môn cầu nguyện cung hiến Đền thờ

22Trước mặt nhân dân, Sa-lô-môn đứng trước bàn thờ Chúa, đưa hai tay lên trời 23và cầu nguyện "Lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, không có thần nào trên trời hay dưới đất như Ngài. Chúa giữ giao ước và tỏ lòng nhân từ với người hết lòng theo đường lối Chúa. 24Hôm nay, Chúa đã thực hiện lời hứa với Đa-vít, cha con. 25Bây giờ, lạy Thượng Đế Hằng Hữu của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cũng thực hiện lời hứa này với Đa-vít: 'Nếu con cháu ngươi noi gương ngươi, thận trọng trong con đường mình, tất nhiên sẽ luôn luôn có người kế vị ngươi.' 26Lạy Thượng Đế của Y-sơ-ra-ên, xin Chúa cho lời hứa này cũng được thực hiện.
27Nhưng Thượng Đế có ở trên đất này không? Trời đất và vũ trụ bao la cũng không chứa được Ngài, huống hồ cái Đền con vừa mới cất. 28Tuy nhiên, lạy Thượng - Đế Hằng Hữu, xin nghe lời cầu nguyện con, 29xin Chúa đêm ngày để mắt trông chừng Đền thờ này, là nơi Ngài có nói đến: 'Danh Ta ngự tại đây,' để mỗi khi con hướng về Đền thờ cầu nguyện, Chúa sẽ nghe con. 30Xin nghe mọi lời con và lời nhân dân Y-sơ-ra-ên cầu nguyện mỗi khi chúng con hướng về nơi này. Xin Chúa từ trời lắng nghe và tha thứ cho chúng con.
31Nếu có người đứng thề trước bàn thờ của nơi này để thanh minh một tội trạng; 32xin Chúa từ trời lắng nghe, phân xử và trừng phạt kẻ có tội nhưng biện minh cho người ngay lành.
33Khi dân Y-sơ-ra-ên có tội, bị quân thù đánh bại, nếu họ ăn năn, xưng nhận danh Ngài và hướng về Đền này kêu cầu với Chúa, 34xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho họ, đem họ về đất này, là đất Chúa đã cho tổ tiên họ.
35Khi trời đóng chặt, mưa không rơi xuống đất vì nhân dân phạm tội với Chúa; nếu họ ăn năn, hướng về nơi nầy cầu nguyện, xưng nhận danh Ngài trong khi bị Chúa trừng phạt, 36xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho dân Ngài, hướng dẫn họ đi vào con đường chính đáng, cho mưa rơi xuống nhuần tưới đất đai mà Ngài đã ban cho họ.
37Khi trong nước có nạn đói, nạn dịch, thóc lúa cây cối bị cằn cỗi, bị nấm mốc, bị châu chấu cắn phá, hoặc lúc bị quân thù vây hãm, hay bị bất cứ tai nạn, bệnh tật gì khác, 38nếu có một người hoặc mọi người Y-sơ-ra-ên nhận tội mình, dang tay hướng về Đền thờ này cầu nguyện; 39xin Chúa từ trời lắng nghe, tha tội cho, đối xử với mỗi người tùy theo cách ăn ở của họ, vì Chúa - chỉ có Chúa - biết lòng người. 40Như thế, họ sẽ kính sợ Chúa trọn đời khi họ sống trong miền đất Chúa ban cho tổ tiên họ.
41,42Ngay cả người ngoại quốc, khi nghe danh lớn của Chúa (vì người ta sẽ nghe tiếng về uy danh và về quyền năng siêu việt của Ngài), họ sẽ từ xa đến cầu nguyện trong Đền thờ này, 43xin Chúa từ trời lắng nghe, nhậm lời họ kêu cầu. Như thế nhân dân trên đất sẽ nhận biết và kính sợ Chúa cũng như người Y-sơ-ra-ên, và cả thế giới đều biết rằng đây là Đền thờ của Chúa.
44Khi Chúa sai dân Ngài ra trận chiến đấu với quân thù, họ sẽ hướng về thành Chúa chọn và Đền con cất cho Ngài để cầu nguyện, 45xin Chúa từ trời nghe lời cầu nguyện của họ và bênh vực cho.
46Nếu họ phạm tội với Chúa vì nào ai không phạm tội khiến Chúa giận, và cho phép quân thù bắt họ làm tù binh dẫn về đất địch, dù xa hay gần; 47nếu họ hồi tâm, tỏ lòng ăn năn và kêu xin với Chúa: 'Chúng con có tội, làm điều tà ác;' 48nếu họ hết lòng thống hối trong khi còn ở trên đất quân thù, hướng về quê hương xứ Chúa đã cho tổ tiên họ, hướng về thành Chúa chọn và Đền thờ con xây cất để cầu nguyện với Chúa, 49,50xin Chúa từ trời lắng nghe, tha hết mọi lỗi lầm của họ, bênh vực họ, khiến quân thù có lòng thương xót họ, 51Vì họ là dân, là cơ nghiệp của Ngài được giải phóng khỏi Ai-cập tức lò lửa hực. 52Xin Chúa mở mắt nhìn xem và lắng tai nghe họ mỗi khi họ kêu cầu với Chúa. 53Vì khi đem tổ tiên chúng con ra khỏi Ai-cập, Chúa có nói với Mai-sen, tôi tớ Chúa là Chúa tách riêng Y-sơ-ra-ên ra khỏi mọi dân tộc để làm tuyển dân của Ngài."
54,55Lúc cầu nguyện, Sa-lô-môn quỳ gối trước bàn thờ Chúa Chúa Hằng Hữu, hai tay đưa thẳng lên trời. Cầu nguyện xong vua đứng dậy, lớn tiếng chúc phước lành cho toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên: 56“Ngợi khen Chúa, vì Ngài cho Y-sơ-ra-ên hưởng thái bình. Mọi lời Chúa hứa qua Mai-sen đều được Ngài thực hiện, không sót một điều nào. 57Cầu Thượng Đế Hằng Hữu ở với chúng ta như đã ở với tổ tiên ta, cầu Chúa đừng rời, đừng bỏ chúng ta. 58Cầu cho lòng ta hướng về Chúa, đi theo lối Ngài, tuân giữ các điều răn, luật lệ, quy-tắc Chúa truyền cho tổ tiên ta. 59Cầu cho những lời cầu nguyện của tôi được ngày đêm ở trước mặt Chúa, để mỗi ngày Ngài giúp chúng ta trong mọi nhu cầu. 60Như vậy, nhân thế mới biết Chúa Hằng Hữu là Thượng Đế, chẳng có Thượng Đế nào khác. 61Về phần đồng bào, phải hết lòng trung thành với Thượng Đế Hằng Hữu, tuân giữ luật lệ và điều răn của Ngài, như đồng bào hiện đang tuân giữ.

Lễ cung hiến Đền thờ

62,63Sau đó, vua và nhân dân Y-sơ-ra-ên làm lễ cung hiến Đền thờ cho Chúa Hằng Hữu. Họ dâng hai mươi hai ngàn con bò và một trăm hai mươi ngàn con cừu làm lễ vật thù ân cho Ngài. 64Hôm ấy vua để riêng phần giữa sân (ngay trước Đền thờ) làm nơi dâng lễ thiêu, ngũ cốc và mỡ của lễ vật thù ân, vì bàn thờ đồng không đủ chứa các lễ vật này. 65Vậy Sa-lô-môn và nhân dân Y-sơ-ra-ên từ khắp nơi, từ cổng Ha-mát cho đến suối Ai-cập, lũ lượt kéo đến trước mặt Chúa trong bảy ngày, rồi kéo dài thêm bảy ngày nữa. 66Sau đấy, vua cho nhân dân về. Họ chúc phước lành cho vua rồi lên đường. Trên đường về, lòng họ rộn rã vui mừng về mọi điều tốt lành Chúa Hằng Hữu làm cho Đa-vít, tôi tớ Ngài, và cho Y-sơ-ra-ên, dân tộc Ngài.

8

Noau Dững Amut Hĩp Parnai Parkhán

1Chơ puo Sa-lamôn arô máh cũai sốt tễ dũ tỗp, dũ sâu, cớp dũ dống sũ tễ tỗp I-sarel, yỗn toâq rôm pỡ vil Yaru-salem, dŏq dững achu Hĩp Parnai Parkhán tễ vil Si-ôn la Vil Davĩt, cớp dững amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 2Nheq tữh tỗp alới toâq rôm parnơi tâng tangái noau táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh tâng casâi tapul la casâi E-tha-nim. 3-4Tữ máh cũai sốt toâq rôm dũ chơ, máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ dững Hĩp Parnai Parkhán, dếh Dống Sang Aroâiq, cớp máh crơng tâc tâng dống sang ki, chơ amut dŏq tâng Dống Sang Toâr. 5Puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel toâq rôm choâng moat Hĩp Parnai Parkhán, cớp alới chiau sang cữu cớp ntroŏq sa‑ữi lứq toau tỡ rơi ngih noâng. 6Chơ máh cũai tễng rit sang crang Hĩp Parnai Parkhán amut tâng Dống Sang Toâr, cớp dững dŏq tâng Ntốq Yiang Sursĩ Ỡt pưn khlap chê-rup. 7Khlap chê-rup paliang aloŏh acrúq Hĩp Parnai Parkhán cớp tong crang. 8Tong crang ki cuti lứq; cũai aléq tayứng coah moat Ntốq Tễng Rit, ki bữn hữm pứp tong ki. Ma khân tapoang nhêng tễ coah tiah, ki tỡ bữn hữm. (Tong crang ki noâng níc toau toâq tangái nâi.) 9Tâng clống Hĩp Parnai Parkhán bữn ống bar khlễc tamáu Môi-se khoiq chóq dŏq bo alới ỡt pỡ cóh Si-nai, la ntốq Yiang Sursĩ yỗn santoiq parkhán pỡ cũai proai I-sarel, bo tỗp alới mbỡiq loŏh tễ cruang Ê-yip-tô.
10Toâq máh cũai tễng rit sang Yiang Sursĩ ntôm loŏh tễ Ntốq Tễng Rit, bo ki toâp bữn moang ramứl cadớp nheq Dống Sang Toâr, 11cớp tỗp alới tỡ têq pỡq táq ranáq ntrớu noâng, yuaq bữn ang‑ữr tễ Yiang Sursĩ aclaq chũop nheq dống sang. 12Chơ puo Sa-lamôn câu neq: “Ơ Yiang Sursĩ ơi! Anhia khoiq táq yỗn bữn moat mandang, ma anhia rưoh ỡt tâng ramứl cớp tâng ntốq canám. 13Cứq khoiq táq dống sang nêuq o lứq yỗn anhia ỡt, la ntốq yỗn anhia ỡt mantái níc.”

Sa-lamôn Pai Ŏ́c Bốn Yỗn Cũai Proai

14Bo cũai proai ỡt tayứng bân ntốq ki, puo Sa-lamôn to moat chu tỗp alới cớp sễq Yiang Sursĩ satốh ŏ́c bốn puan yỗn tỗp alới. 15Án pai neq: “Lứq khễn Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel; án yống níc parnai án khoiq ữq cớp puo Davĩt mpoaq cứq. Án pai chóq Davĩt neq: 16‘Noap tễ tangái cứq dững aloŏh cũai proai cứq tễ cruang Ê-yip-tô, cứq tỡ bữn rưoh vil léq yũah tâng cruang cutễq tỗp I-sarel dŏq táq dống sang cỡt ntốq sang toam cứq. Ma Davĩt ơi! Cứq khoiq rưoh mới yỗn cỡt sốt máh cũai proai cứq.’”
17Sa-lamôn pai ễn neq: “Davĩt, mpoaq cứq, khoiq aloŏh ngê ễ táq dống sang dŏq sang toam Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel. 18Ma Yiang Sursĩ pai chóq án neq: ‘Lứq o mới chanchớm ễ táq Dống Sang Toâr dŏq sang toam cứq. 19Ma mới la tỡ cỡn cũai táq dống sang yỗn cứq; con samiang mới toâp la cũai táq dống sang yỗn cứq.’
20“Sanua, Yiang Sursĩ táq ariang án khoiq par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq dŏq cứq bữn cỡt puo tỗp I-sarel pláih mpoaq cứq; cớp cứq khoiq táq Dống Sang Toâr nâi dŏq sang toam Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel. 21Cứq khoiq táq tâng clống dống sang ntốq dŏq Hĩp Parnai Parkhán, cớp bar khlễc tamáu ca chĩc dŏq parnai Yiang Sursĩ parkhán cớp achúc achiac hái, bo Ncháu dững aloŏh tỗp alới tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Câu Sễq Tễ Yiang Sursĩ

22Choâng moat máh cũai proai, Sa-lamôn pỡq tayứng yáng moat prông sang, chơ án sacỡ atĩ achỗn 23cớp câu sễq neq: “Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp I-sarel ơi! Lứq tỡ bữn yiang aléq ma ariang anhia tâng paloŏng tỡ la tâng cutễq nâi; anhia yống níc máh parnai anhia khoiq par‑ữq cớp cũai proai anhia, cớp anhia apáh ŏ́c ayooq chóq alới toâq alới trĩh anhia nheq tễ mứt pahỡm. 24Anhia yống níc máh parnai anhia par‑ữq cớp Davĩt mpoaq cứq. Tangái nâi dũ ŏ́c anhia par‑ữq lứq cỡt rapĩeiq. 25Ơ Yiang Sursĩ, Ncháu tỗp I-sarel ơi! Sanua, sễq anhia táq máh ŏ́c anhia khoiq par‑ữq cớp mpoaq cứq bo anhia atỡng án neq: ‘Lứq bữn níc muoi noaq cũai tễ tŏ́ng toiq mới bữn cỡt puo tỗp I-sarel, khân con châu mới táq puai máh phễp rit cứq ariang mới khoiq táq.’ 26Ngkíq, Yiang Sursĩ la Ncháu cũai I-sarel ơi! Sanua sễq anhia táq yỗn cỡt rapĩeiq dũ ramứh anhia khoiq ữq cớp puo Davĩt, mpoaq cứq, la cũai táq ranáq anhia.
27“Ơ Yiang Sursĩ ơi! Nŏ́q têq anhia ỡt tâng cốc cutễq nâi? Tam paloŏng la‑a lứq la noâng tỡ bữn dũ yỗn anhia ỡt, casỡn dống sang cứq táq nâi ễn. 28Yiang Sursĩ la Ncháu cứq ơi! Cứq la cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq câu tangái nâi, cớp sễq anhia ta‑ỡi. 29Sễq anhia nhêng chu Dống Sang Toâr nâi cu sadâu tangái. Yuaq ntốq nâi cỡt ntốq anhia khoiq rưoh dŏq sang toam anhia, sễq anhia tamứng toâq cứq to moat chu Dống Sang Toâr cớp câu sễq anhia rachuai. 30Sễq anhia tamứng sưong santoiq cứq cớp máh cũai proai anhia câu sễq tễ anhia. Toâq tỗp hếq to moat chu dống sang nâi cớp câu sễq tễ anhia, sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, cớp táh lôih yỗn tỗp hếq.
31“Toâq bữn noau tếq muoi noaq táq lôih chóq cũai canŏ́h, cớp noau dững án chu prông sang tâng Dống Sang Toâr nâi yỗn án thễ dũan pai án lứq tỡ bữn lôih, 32sễq anhia tamứng tễ pỡng paloŏng, cớp rasữq chuai máh cũai táq ranáq anhia. Sễq anhia yỗn cũai ca táq lôih roap tôt, ma acláh cũai ca tỡ bữn táq lôih.
33“Toâq proai anhia la cũai I-sarel cỡt pê chóq cũai par‑ũal, cỗ tian alới táq lôih chóq anhia, ma khân alới píh loah chu anhia cớp ngin kho sễq anhia táh lôih yỗn tỗp alới pỡ Dống Sang Toâr nâi, 34sễq anhia tamứng tễ paloŏng, cớp sễq anhia táh lôih yỗn máh cũai proai anhia la cũai I-sarel, cớp dững alới chu loah pỡ cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
35“Toâq anhia catáng dŏq dỡq mia tỡ yỗn mia sễng cỗ tian cũai proai anhia táq lôih chóq anhia, cớp khân alới to moat chu Dống Sang Toâr cớp ngin kho lôih, cớp ralêq cỡt mứt tamái, dếh câu sễq tễ anhia, 36sễq anhia tamứng tỗp alới, cớp táh lôih yỗn cũai táq ranáq anhia, la máh cũai proai I-sarel, cớp arĩen alới yỗn táq ống ranáq pĩeiq sâng. Ơ Yiang Sursĩ ơi! Sễq anhia yỗn dỡq mia sễng loah pỡ cloong cutễq anhia khoiq chiau yỗn alới ndỡm níc.
37“Toâq bữn ŏ́c panhieih khlac tâng cutễq nâi, tỡ la toâq ỗn, tỡ la máh sarnóh chóh cỡt rúng nheq cỗ tian cuyal phát hang lứq, tỡ la sampứh lam toâq talốh, tỡ la cũai par‑ũal ỡt crŏ́q lavíng vil, tỡ la cỡt rang‑ĩ tacóh, 38sễq anhia tamứng sưong santoiq tỗp alới câu sễq. Khân cũai aléq tễ tỗp I-sarel ma bữn mứt pahỡm túh ngua cớp sacỡ atĩ chu Dống Sang Toâr nâi toâq án câu sễq, 39sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt. Sễq anhia táh lôih yỗn alới cớp rachuai tỗp alới. Ống anhia toâp dáng nheq tâng mứt pahỡm cũai chanchớm; sễq anhia táq chóq dũ náq cũai bữn roap puai loah ranáq alới táq. 40Táq ngkíq têq alới sa‑âm anhia mantái níc bo alới ỡt tâng cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới.
41-42“Toâq bữn cũai tễ cruang yơng tễ cruang I-sarel bữn sâng tễ ramứh ranoâng anhia cớp tễ ranáq toâr lứq anhia khoiq táq yỗn cũai proai anhia, chơ alới toâq rôm sang cớp câu sễq tễ anhia pỡ Dống Sang Toâr nâi tê, 43sễq anhia tamứng tễ paloŏng la ntốq anhia ỡt, cớp chuai alới, dŏq yỗn cũai chũop cốc cutễq nâi bữn dáng cớp yám noap anhia, machớng tỗp I-sarel la proai anhia tê. Chơ tỗp alới bữn dáng Dống Sang Toâr cứq khoiq táq la ntốq yỗn máh cũai toâq rôm sang toam anhia.
44“Toâq anhia ớn cũai proai anhia pỡq chíl cũai par‑ũal alới pỡ ntốq aléq alới ỡt, khân alới to moat chu vil anhia khoiq rưoh cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq nâi, chơ câu sễq tễ anhia, 45sễq anhia tamứng tễ paloŏng sưong santoiq alới câu sễq, cớp rachuai alới yỗn chíl riap.
46“Toâq cũai proai anhia táq lôih chóq anhia (yuaq tỡ bữn noau ma tỡ bữn táq lôih), cớp anhia sâng cutâu mứt cớp chiau yỗn cũai par‑ũal chíl riap alới, cớp cỗp dững alới pỡ cruang canŏ́h yơng lứq, 47ma khân cũai proai anhia câu sễq loah tễ anhia tễ cruang ki, sễq anhia tamứng sưong santoiq alới. Khân tỗp alới lêq loah mứt pahỡm tamái, chơ ngin kho lôih tỗp alới khoiq táq chóq anhia, cớp pai: ‘Hếq la cũai ngian, cũai loâi lứq,’ sễq anhia tamứng sưong máh santoiq tỗp alới câu. 48Cớp khân tỗp alới píh loah chu anhia nheq tễ mứt pahỡm pỡ cruang cutễq alới ỡt ki, cớp alới to moat chu cruang cutễq anhia khoiq chiau yỗn achúc achiac alới cớp chu vil anhia khoiq rưoh, cớp chu Dống Sang Toâr cứq khoiq táq yỗn anhia, 49sễq anhia tamứng tễ paloŏng, la ntốq anhia ỡt, la sưong santoiq tỗp alới câu. Sễq anhia sarũiq táq cớp táh lôih yỗn alới. 50Sễq anhia táh nheq máh lôih cớp ranáq sâuq alới khoiq táq chóq anhia, cớp sễq anhia yỗn máh cũai par‑ũal alới sâng sarũiq táq loah alới tê. 51Tỗp alới cỡt cũai proai anhia, la cũai anhia khoiq dững aloŏh tễ cruang Ê-yip-tô la ntốq samoât lo sarốc tac.
52“Ơ Yiang Sursĩ la Ncháu hếq ơi! Sễq anhia nhêng chu cũai proai I-sarel cớp puo tỗp alới na mứt pahỡm sarũiq táq alới mantái níc; toâq alới câu sễq anhia rachuai, ki sễq anhia tamứng santoiq alới câu sễq. 53Tễ nheq máh tỗp cũai tâng cốc cutễq nâi anhia khoiq rưoh tỗp alới dŏq cỡt proai anhia, machớng anhia khoiq atỡng na Môi-se, la cũai táq ranáq anhia, bo anhia la Ncháu Nheq Tữh Cũai dững aloŏh achúc achiac hếq tễ cruang Ê-yip-tô.”

Sa-lamôn Atỡng Ŏ́c Parsốt

54Toâq moâm puo Sa-lamôn câu sễq tễ Yiang Sursĩ, chơ án yuor tayứng yáng moat prông sang bân ntốq án ỡt sacốh racớl cớp sacỡ atĩ. 55Án câu sễq ŏ́c bốn yỗn máh cũai I-sarel tâng ntốq ki na sưong casang. Án pai neq: 56“Lứq khễn Yiang Sursĩ ca rachuai máh cũai proai án yỗn bữn ỡt ien khễ, ĩn án khoiq par‑ữq dŏq chơ. Án yống níc máh santoiq án khoiq par‑ữq na Môi-se, la cũai táq ranáq án. 57Sễq Yiang Sursĩ la Ncháu hếq, ỡt cớp tỗp hếq, machớng án khoiq ỡt cớp achúc achiac hếq chơ. Sễq án chỗi táh hếq. 58Sễq Yiang Sursĩ chuai tỗp hếq yỗn têq trĩh níc án, yỗn hếq tamoong dŏq táq ranáq án yỗn pĩeiq lứq; cớp dŏq hếq yống níc phễp rit, dếh santoiq án khoiq patâp yỗn achúc achiac hếq tễ nhũang chơ. 59Sễq Yiang Sursĩ, la Ncháu hếq, sanhữ níc máh santoiq cứq khoiq câu sễq nâi! Sễq án sâng sarũiq chóq cũai proai I-sarel cớp puo alới, cớp yỗn máh ŏ́c alới cóq bữn cu rangái. 60Ngkíq máh cũai proai chũop cruang cutễq nâi têq dáng ống Yiang Sursĩ toâp la Ncháu, tỡ cỡn yiang canŏ́h. 61Tễ nâi chumát, sễq nheq tữh anhia tanoang tapứng níc chóq Yiang Sursĩ la Ncháu tỗp hái na trĩh phễp rit án cớp dũ ŏ́c án khoiq patâp, ariang anhia táq puai tâng tangái nâi.”

Chiau Sang Dống Sang Toâr

62Chơ puo Sa-lamôn cớp dũ náq cũai I-sarel chiau sang máh crơng yỗn Yiang Sursĩ. 63Sa-lamôn kiac ntroŏq 22,000 lám, cớp cữu 120,000 lám, chiau sang dŏq cỡt ratoi. Puo Sa-lamôn cớp nheq tữh cũai proai chiau sang Dống Sang Toâr ki yỗn Yiang Sursĩ. 64Tâng tangái ki Sa-lamôn chiau sang dếh nchŏh yáng moat Dống Sang Toâr. Pỡ ntốq ki án bốh charán dŏq chiau sang, chiau sang máh thữ racáu, cớp chiau sang nsễng charán dŏq cỡt crơng sang yỗn cỡt ratoi. Án táq ngkíq yuaq prông sang sapoan án khoiq táq tỡ bữn toâr dũ yỗn dŏq máh charán ễ bốh chiau sang, máh thữ racáu, cớp máh nsễng dŏq cỡt ratoi.
65Tâng tapul tangái puo Sa-lamôn cớp máh cũai proai I-sarel táq rit cha bũi Tangái Chóh Nloâh. Máh cũai toâq rôm clứng lứq, án ca toâq tễ parsốt cruang coah angia pỡng la ntốq raláp Hamat, cớp tễ raloan cruang coah angia pưn, la cruang Ê-yip-tô. 66Tâng tangái tacual puo Sa-lamôn yỗn máh cũai proai píh chu loah pỡ dống alới bữm. Dũ náq tỗp alới khễn puo Sa-lamôn; chơ píh chu bũi óh lứq cỗ Yiang Sursĩ khoiq yỗn ŏ́c bốn pỡ puo Davĩt, la cũai táq ranáq án, dếh máh cũai proai I-sarel.