2

1Yog le hov kuv txhad npaaj sab tas kuv yuav tsw tuaj ua rua mej rov ntxhuv sab dua ib zag. 2Yog kuv ua rua mej ntxhuv sab, leejtwg yuav ua rua kuv zoo sab xyiv faab tsuas yog cov kws kuv ua rua ntxhuv sab xwb? 3Kuv sau thawj tsaab ntawv hov sub thaus tuaj txug lawd kuv txhad tsw raug kev ntxhuv sab ntawm cov tuabneeg kws tswm nyog ua kuas kuv zoo sab xyiv faab, tsua qhov kuv ruaj sab rua mej txhua tug tas thaus kuv zoo sab mej suavdawg yuav zoo sab hab. 4Kuv sau tsaab ntawv hov nrug lub kua muag hab kev ceblaaj txom nyem hab kev nyuaj sab heev kawg tuaj rua mej, tsw yog sau tuaj ua rua mej ntxhuv sab tassws yog sau qha mej paub tas kuv hlub mej ntau tshaaj plawg.

Zaam txem rua tug kws ua txhum

5Yog leejtwg ua kuas muaj kev ntxhuv sab tug hov tsw yog ua rua kuv tuab leeg ntxhuv sab xwb tassws kuj ua rua mej txhua tug ntxhuv qho ntswv hab (kuv has “qho ntswv” hov tub yog vem kuv tsw xaav has nyaav dhau.) 6Qhov kws feem coob rau txem rua tug hov kuj txaus lawm. 7Yog le nuav tswm nyog mej zaam txem hab nplig tug hov lub sab zoo dua, tsaam tes txujkev kws nyuaj sab heev kawg nyaab hlo nwg. 8Yog le nuav kuv txhad thov mej tuav rawv txujkev hlub rua nwg dua. 9Qhov kws kuv sau le hov yog kuv xaav swm mej saib mej yuav noog lug txhua yaam los tsw noog. 10Yog mej zaam txem rua leejtwg kuv kuj zaam txem rua tug hov hab. Yog kuv zaam txem rua txujkev txhum twg (yog muaj zaaj twg kws yuav tsum zaam txem rua tag) kuv kuj zaam txem taab meeg Kheto lub xubndag vem yog saib rua mej, 11sub Xataa txhad kov tsw yeej peb vem peb tub paub nwg tej tswvyim phem lawm.

Povlauj teg num

12Thaus kuv moog txug lub moos Rhau‑a es yuav pav txuj xuv zoo has txug Kheto, tug Tswv tub qheb qhov rooj rua kuv hov ntawd. 13Tassws kuv tseed tsw tau kaaj sab vem tsw tau ntswb kuv tug kwv Titau hov ntawd, kuv txhad xob puab hab moog rua lub xeev Makhentaunia.
14Tassws ua Vaajtswv tsaug, kws nwg naj nub coj peb moog ua ib paab kws kov yeej rua huv Kheto, hab nwg swv peb ua rua tug ntxhab tsw qaab kws yog qhov kws paub Kheto nthuav moog rua txhua qhov. 15Peb yog Kheto tug ntxhab tsw qaab rua Vaajtswv huv cov tuabneeg kws saamswm dim hab huv cov kws saamswm puam tsuaj, 16yog cov paa kws coj moog rua txujkev tuag rua cov kws saamswm puam tsuaj hab yog cov paa kws coj moog rua txujsa rua cov kws saamswm dim. Leejtwg tswm nyog rua tej num kws has taag nuav? 17Peb zoo tsw thooj le cov tuabneeg coob coob kws muab Vaajtswv txujlug muag tshaaj thawj tassws peb nyob huv Kheto muaj lub sab dawb paug has taab meeg Vaajtswv ib yaam le tuabneeg kws Vaajtswv khaiv tuaj.

2

1Cho nên tôi nhất quyết rằng chuyến viếng thăm sắp đến của tôi không phải là một dịp để khiến anh chị em buồn. 2Nếu tôi làm anh chị em buồn thì ai là người làm cho tôi vui? Chỉ có một mình anh chị em có thể làm cho tôi vui được thôi—đó là những người mà tôi đã làm buồn lòng. 3Tôi viết thư nầy là vì lý do sau: Khi tôi đến cùng anh chị em tôi sẽ không bị buồn vì những người đáng lẽ làm cho tôi vui. Tôi tin chắc tất cả các anh chị em cũng chia xẻ niềm vui ấy của tôi. 4Lúc viết bức thư trước, lòng tôi rất bối rối và đau buồn. Tôi viết cho anh chị em mà rơi nước mắt. Tôi viết, không phải để làm cho anh chị em buồn mà là để anh chị em biết tôi yêu anh chị em đến mức nào.

Hãy tha thứ kẻ có tội

5Có người trong anh chị em gây ra điều buồn rầu, không phải cho tôi mà là cho anh chị em. Tôi muốn nói là người ấy gây buồn cho tất cả chúng ta ít nhiều. Tôi không muốn phóng đại làm gì. 6Sự trừng phạt mà hầu hết anh chị em làm cho người đó đã đủ rồi. 7Nhưng bây giờ anh chị em nên tha thứ và an ủi người ấy để họ không quá buồn bã đến nỗi muốn bỏ cuộc. 8Cho nên tôi xin anh chị em hãy tiếp tục chứng tỏ tình yêu thương với người ấy. 9Tôi viết để thử xem anh chị em có vâng theo mọi việc hay không. 10Nếu anh chị em tha thứ ai thì tôi cũng tha thứ người ấy. Và điều tôi tha—nếu có gì để tha—là vì anh chị em, giống như Chúa Cứu Thế đang ở cùng tôi. 11Tôi làm như thế để Sa-tăng không thể lợi dụng, vì chúng ta đã rõ âm mưu của nó.

Nỗi lo âu của Phao-lô
đang khi ở Trô-ách

12Khi tôi đến thành Trô-ách để rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu Thế thì thấy Ngài đã cho tôi một cơ hội tốt tại đó. 13Nhưng tôi không an tâm vì không gặp anh em tôi là Tít ở đó. Cho nên tôi từ giã các anh chị em ở Trô-ách để lên đường qua Ma-xê-đoan.

Sự đắc thắng trong Chúa Cứu Thế

14Nhưng tạ ơn Thượng Đế, Đấng lúc nào cũng đưa chúng ta đến đắc thắng trong Chúa Cứu Thế. Ngài dùng chúng tôi rải sự hiểu biết về Ngài khắp nơi như hương thơm. 15Của lễ chúng tôi dâng cho Thượng Đế là hương thơm của Chúa Cứu Thế ở giữa những người được cứu và những người bị chết mất. 16Đối với những kẻ bị chết mất, chúng tôi là mùi của sự chết đưa đến cái chết, nhưng đối với người được cứu, chúng tôi là mùi thơm của sự sống đưa đến sự sống. Ai có thể làm được điều ấy? 17Chúng tôi không thủ lợi bằng cách buôn bán lời của Thượng Đế như nhiều người khác đã làm nhưng trong Chúa Cứu Thế chúng tôi nói ra lời chân thật như những sứ giả của Thượng Đế đứng trước mặt Ngài.