35

Y-Jôsia Mkŏ mjing Knăm Klei Găn

(II Mtao 23:21-23)

1Y-Jôsia mkŏ mjing knăm Klei Găn kơ Yêhôwa hlăm ƀuôn Yêrusalem; leh anăn diñu koh bi mdjiê êđai biăp Klei Găn ti hruê tal pluh pă hlăm mlan tal sa. 2Ñu mdưm phung khua ngă yang kơ bruă digơ̆ pô, leh anăn bi mđĭ ai digơ̆ hlăm bruă sang yang Yêhôwa. 3Ñu lač kơ phung Lêwi phung mtô kơ jih jang phung Israel leh anăn phung pioh brei leh kơ Yêhôwa, “Mă dưm hip doh jăk hlăm sang Y-Salômôn anak êkei Y-Đawit mtao Israel mdơ̆ng leh. Amâo yuôm ôh diih lŏ kkung gơ̆ ti mra diih. Ară anei mă bruă bĕ kơ Yêhôwa Aê Diê diih leh anăn kơ phung ƀuôn sang ñu Israel. 4 Mprăp bĕ diih pô tui si djuê ana diih tui si êpul diih, tui hlue klei Y-Đawit mtao Israel leh anăn Y-Salômôn anak êkei ñu mtă. 5Dôk bĕ hlăm anôk doh jăk tui si êpul djuê ana phung ayŏng adei diih phung ƀuôn sang, sa êpul phung Lêwi kơ grăp djuê ana. 6Koh bi mdjiê bĕ êđai biăp Klei Găn, bi doh hĕ diih pô, leh anăn mkra kơ phung ayŏng adei diih, čiăng ngă tui si klei Yêhôwa blŭ hŏng ƀăng êgei Y-Môis.”
7Y-Jôsia brei kơ phung ƀuôn sang jing mnơ̆ng myơr kơ Klei Găn pioh kơ jih jang phung truh tinăn, tlâo pluh êbâo drei êđai biăp leh anăn êđai bê, leh anăn tlâo êbâo drei êmô knô; mnơ̆ng anăn jing dŏ mtao. 8Phung khua ñu myơr hŏng ai tiê čŏng čiăng kơ phung ƀuôn sang, kơ phung khua ngă yang, leh anăn kơ phung Lêwi, Y-Hilkia, Y-Sakari, leh anăn Y-Jêhiêl khua prŏng kơ sang yang Aê Diê, brei kơ phung khua ngă yang pioh myơr kơ Klei Găn dua êbâo năm êtuh drei êđai biăp leh anăn êđai bê leh anăn tlâo êtuh drei êmô knô. 9Msĕ mơh Y-Kênania, Y-Sêmaya, leh anăn Y-Nêthanel phung adei ñu, leh anăn Y-Hasabia, Y-Jêiêl, leh anăn Y-Jôsabat phung khua kơ phung Lêwi brei kơ phung Lêwi mnơ̆ng myơr pioh kơ Klei Găn êma êbâo drei êđai biăp leh anăn êđai bê leh anăn êma êtuh drei êmô knô.
10Tơdah bruă mkra leh, phung khua ngă yang dôk dơ̆ng hlăm anôk diñu pô, leh anăn phung Lêwi hlăm êpul diñu tui si mtao mtă. 11Diñu koh bi mdjiê êđai biăp Klei Găn, leh anăn phung khua ngă yang hƀrah êrah diñu mă tŭ mơ̆ng mnơ̆ng anăn êjai phung Lêwi lôk klĭt mnơ̆ng anăn. 12Diñu dưm mdê mnơ̆ng myơr čuh čiăng kơ diñu bi mbha dŏ anăn tui si êpul djuê ana phung ƀuôn sang, čiăng myơr kơ Yêhôwa, tui si arăng čih leh hlăm hdruôm hră Y-Môis. Msĕ snăn mơh diñu ngă hŏng êmô knô. 13 Diñu ghang êđai biăp Klei Găn hŏng pui tui si klei mtă; leh anăn diñu tŭk mnơ̆ng myơr doh jăk hlăm gŏ, gŏ ƀŭng, leh anăn hlăm jam, leh anăn ba digơ̆ djăl kơ jih jang phung ƀuôn sang. 14Leh klei anăn diñu mkra kơ diñu pô leh anăn kơ phung khua ngă yang, kyuadah phung khua ngă yang phung anak êkei Y-Arôn dôk mă bruă myơr mnơ̆ng myơr čuh leh anăn kdrêč prăi tơl mlam; snăn phung Lêwi mkra kơ diñu pô leh anăn kơ phung khua ngă yang phung anak êkei Y-Arôn. 15 Phung mmuñ, phung anak êkei Y-Asap, Y-Hêman, leh anăn Y-Yêduthun pô thâo bi ƀuh kơ mtao dôk hlăm anôk diñu tui si klei mtao Y-Đawit mtă; Phung kiă ƀăng jang dôk ti grăp ƀăng jang, amâo yuôm diñu đuĕ mơ̆ng bruă diñu ôh, kyuadah phung ayŏng adei diñu phung Lêwi mkra brei kơ diñu.
16Snăn jih jang bruă Yêhôwa arăng mkra hruê anăn, čiăng hdơr mpŭ kơ knăm Klei Găn leh anăn čiăng myơr mnơ̆ng myơr čuh ti dlông knưl Yêhôwa tui si klei Mtao Jôsia mtă. 17 Phung ƀuôn sang Israel truh tinăn hdơr mpŭ kơ knăm Klei Găn leh anăn ƀơ̆ng kpŭng amâo mâo kpei êjai kjuh hruê hlăk anăn mơh. 18Amâo tuôm mâo ôh knăm Klei Găn msĕ snăn arăng tuôm mkŏ mjing hlăm čar Israel dơ̆ng mơ̆ng ênuk khua pô hưn êlâo Y-Samuel; amâo mâo sa čô mtao Israel tuôm hdơr mpŭ kơ knăm Klei Găn msĕ si Y-Jôsia, phung khua ngă yang, phung Lêwi, jih jang phung Yuđa leh anăn Israel truh tinăn, leh anăn phung dôk hlăm ƀuôn Yêrusalem mkŏ mjing leh. 19Hlăm thŭn tal pluh sa păn ênuk Y-Jôsia kiă kriê arăng mkŏ mjing knăm Klei Găn anăn.

Klei Y-Jôsia Djiê

(II Mtao 23:28-30)

20Leh klei anăn, leh Y-Jôsia mkra leh sang yang, Y-Nêkô mtao Êjip đĭ nao čiăng bi blah ti ƀuôn Karkêmis ti êa krông Ơprat, leh anăn Y-Jôsia kbiă nao bi blah hŏng ñu. 21Ƀiădah mtao Êjip tiŏ nao phung dĭng ktang kơ Y-Jôsia, lač, “Ơ mtao Yuđa, ya klei drei mâo hdơ̆ng drei? Hruê anei kâo amâo hriê bi blah hŏng ih ôh, ƀiădah bi blah hŏng găp djuê kâo dôk bi blah leh; leh anăn Aê Diê mtă leh kơ kâo brei ngă djăl. Mdei bĕ, đăm bi kdơ̆ng hŏng Aê Diê ôh, pô dôk mbĭt hŏng kâo, huĭdah ñu bi rai ih.” 22Ƀiădah Y-Jôsia amâo wir đuĕ ôh mơ̆ng mtao Êjip, ƀiădah mgưt ngă pô mkăn čiăng bi blah hŏng gơ̆. Ñu amâo dôk hmư̆ ôh klei Aê Diê blŭ hŏng mơ̆ng ƀăng êgei Nêkô, ƀiădah dơ̆ng bi blah hlăm tlung Mêgidô. 23Phung mnah hna mnah djŏ Mtao Jôsia, leh anăn mtao lač kơ phung dĭng buăl ñu, “Mă ba bĕ kâo kơ anôk mkăn, kyuadah kâo êka kjham.” 24Snăn phung dĭng buăl ñu mă ñu mơ̆ng êdeh aseh ñu leh anăn mdiăng ñu hlăm êdeh aseh tal dua ñu, leh anăn ba ñu kơ ƀuôn Yêrusalem. Ñu djiê, leh anăn arăng dơr ñu hlăm msat phung aê ñu. Jih jang phung Yuđa leh anăn phung dôk hlăm ƀuôn Yêrusalem kơŭ kyăm kơ Y-Jôsia. 25Y-Yêrêmi mkra klei čŏk hia kơ Y-Jôsia; leh anăn jih jang phung êkei mniê mmuñ čŏk hia leh kơ Y-Jôsia truh kơ hruê anei. Diñu brei klei čŏk hia anăn jing klei bhiăn hlăm čar Israel; klei anei arăng čih leh hlăm hdruôm hră Klei Čŏk Hia. 26Bruă mkăn Y-Jôsia ngă, leh anăn bruă jăk ñu ngă tui si klei arăng čih leh hlăm klei bhiăn Aê Diê, 27bruă ñu mơ̆ng phŭn truh kơ knhal tuč, arăng čih leh hlăm hdruôm hră Phung Mtao Israel leh anăn Yuđa.

35

Cử Hành Lễ Vượt Qua

1Giô-si-a cử hành Lễ Vượt Qua để nhớ ơn CHÚA tại Giê-ru-sa-lem. Họ giết con vật hiến tế của Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng Giêng. 2Ông lập các tư tế vào các chức vụ của họ và khuyến khích họ lo việc phụng vụ tại Ðền Thờ CHÚA. 3Ông nói với người Lê-vi, những người có bổn phận dạy dỗ toàn dân I-sơ-ra-ên, những người đã được biệt riêng ra thánh cho CHÚA, “Hãy để Rương Thánh vào Ðền Thờ mà Sa-lô-môn con của Ða-vít vua I-sơ-ra-ên đã xây. Bây giờ các ngươi không cần phải khiêng Rương ấy cho nặng vai mình nữa. Hãy để thì giờ lo phục vụ CHÚA, Ðức Chúa Trời của các ngươi, và hãy phục vụ dân I-sơ-ra-ên của Ngài. 4Hãy theo thứ tự trong gia tộc các ngươi và theo ban ngành của các ngươi mà đến Ðền Thờ để phục vụ như Ða-vít vua I-sơ-ra-ên đã chỉ dạy, và như Sa-lô-môn con vua ấy đã chỉ bảo. 5Hãy đứng trong sân Ðền Thờ theo ban ngành của gia tộc các ngươi để giúp đỡ đồng bào các ngươi, những người đã được phân phối cho mỗi gia tộc Lê-vi, để các ngươi giúp đỡ họ khi họ đến thờ phượng. 6Hãy giết các thú vật hiến tế của Lễ Vượt Qua, hãy làm cho các ngươi ra thánh, và hãy chuẩn bị đồng bào các ngươi, để ai nấy có thể làm theo mọi lời CHÚA đã dùng Mô-sê chỉ dạy.”
7Giô-si-a góp phần bằng ba mươi ngàn con chiên và dê, cùng ba ngàn con bò, bắt từ các đàn súc vật của ông, để dân dùng làm các con vật hiến tế cho Lễ Vượt Qua. Tất cả các thú vật đó đều do vua tặng. 8Các triều thần của ông cũng tự ý góp phần cho dân, cho các tư tế, và cho những người Lê-vi. Hinh-ki-a, Xa-cha-ri-a, và Giê-hi-ên, tức những người điều hành công việc tại Ðền Thờ của Ðức Chúa Trời, đã góp phần bằng hai ngàn sáu trăm con chiên và dê, cùng ba trăm con bò cho các tư tế, để dùng làm các con vật hiến tế cho Lễ Vượt Qua. 9Ngoài ra, Cô-na-ni-a, hai em trai ông ấy là Sê-ma-gia và Nê-tha-nên, cùng Ha-sa-bi-a, Giê-i-ên, và Giô-xa-bát, các thủ lãnh của người Lê-vi, cũng đã góp phần bằng năm ngàn con chiên và dê, cùng năm trăm con bò cho người Lê-vi, để dùng làm các con vật hiến tế cho Lễ Vượt Qua. 10Vậy mọi sự đã chuẩn bị sẵn sàng: các tư tế đứng vào vị trí của họ, và những người Lê-vi đứng theo ban ngành của họ như lịnh vua đã truyền. 11Họ bắt đầu giết các thú vật hiến tế cho Lễ Vượt Qua. Các tư tế nhận lấy máu và rảy trên bàn thờ, còn những người Lê-vi thì lột da các thú vật. 12Họ chia thịt các con thú dâng làm của lễ thiêu cho các đơn vị gia đình theo từng thị tộc trong dân để dâng lên CHÚA như đã chép trong Sách của Mô-sê. Họ cũng làm tương tự với các con bò. 13Họ nướng thịt con vật hiến tế của Lễ Vượt Qua trên lửa như đã quy định. Còn các vật thánh khác, họ nấu trong các nồi, các vạc, và các chảo; nấu xong họ vội vàng đem phân phát cho dân. 14Sau cùng, họ chuẩn bị phần cho họ và cho các tư tế, bởi vì các tư tế trong dòng dõi A-rôn đã bận rộn dâng các của lễ thiêu và thiêu mỡ cho đến tối. Vậy những người Lê-vi đã chuẩn bị phần cho họ và cho các tư tế trong dòng dõi A-rôn.
15Các ca sĩ trong ca đoàn, con cháu của A-sáp, đứng ở vị trí của họ mà ca ngợi, theo lệnh của Ða-vít, A-sáp, Hê-man, và Giê-đu-thun đấng tiên kiến của vua. Những người giữ cửa vẫn ở các cửa và không phải rời khỏi vị trí của họ, vì những người Lê-vi bà con của họ đã chuẩn bị sẵn phần cho họ và mang đến cho họ.
16Thế là nội ngày hôm đó họ đã cử hành đại lễ rất chu đáo để nhớ ơn CHÚA, gồm việc giữ Lễ Vượt Qua và dâng các của lễ thiêu trên bàn thờ CHÚA như Vua Giô-si-a đã truyền. 17Lúc đó, những người I-sơ-ra-ên hiện diện đã giữ Lễ Vượt Qua và Lễ Bánh Không Men bảy ngày. 18Chưa bao giờ có Lễ Vượt Qua nào được tổ chức quy mô như thế trong I-sơ-ra-ên, kể từ thời của Tiên Tri Sa-mu-ên cho đến bấy giờ; cũng không một vua I-sơ-ra-ên nào đã giữ Lễ Vượt Qua như Giô-si-a đã giữ, tức có các tư tế, có những người Lê-vi, và toàn dân Giu-đa và I-sơ-ra-ên về tham dự chung với dân cư Giê-ru-sa-lem. 19Lễ Vượt Qua ấy đã được giữ trong năm thứ mười tám của triều đại Giô-si-a.

Giô-si-a Bị Na-cô Ðánh Bại và Qua Ðời

20Sau tất cả các việc đó, sau khi Giô-si-a đã sửa sang xong Ðền Thờ, Nê-cô vua Ai-cập kéo quân lên để giao chiến ở Cạt-kê-mít, bên bờ Sông Ơ-phơ-rát. Giô-si-a kéo quân ra để chận đánh ông ấy. 21Nê-cô sai sứ giả đến nói với ông, “Thưa vua Giu-đa, tôi với ông nào có chuyện xích mích gì chăng? Ngày nay tôi kéo quân lên đây không phải để giao chiến với ông, nhưng để đối phó với một vương quốc đang gây chiến với tôi. Ðức Chúa Trời đã truyền cho tôi phải kéo quân đi gấp rút. Vậy xin ông đừng can thiệp vào công việc của Ðức Chúa Trời, Ðấng đang ở với tôi, kẻo Ngài sẽ tiêu diệt ông.”
22Nhưng Giô-si-a không nghe lời ông ấy. Ông cải trang và kéo quân ra nghinh chiến. Ông không nghe những lời của Nê-cô đã nhận từ miệng Ðức Chúa Trời truyền lại. Vì thế ông kéo quân ra đón đánh quân Ai-cập trong Thung Lũng Mê-ghi-đô. 23Quân xạ tiễn của Ai-cập bắn trúng Vua Giô-si-a. Vua bèn nói với các tôi tớ ông, “Hãy đem ta ra khỏi mặt trận, vì ta đã bị trọng thương.” 24Các tôi tớ của ông đem ông ra khỏi xe chiến mã của ông, họ đặt ông trên một xe chiến mã khác, rồi chở ông về Giê-ru-sa-lem. Về đến nơi thì ông tắt thở. Ông được chôn trong mộ của tổ tiên ông. Toàn thể Giu-đa và Giê-ru-sa-lem để tang than khóc Giô-si-a.
25Giê-rê-mi-a đã làm một bài ai ca để khóc Giô-si-a. Tất cả các ca viên, nam lẫn nữ, đều nhắc đến Giô-si-a trong những bài ai ca của họ cho đến ngày nay. Từ đó họ làm cho những bài ai ca trở thành một truyền thống trong I-sơ-ra-ên, và này, họ đã ghi bài ai ca đó vào Tập Ai Ca.
26Những hoạt động khác của Giô-si-a, những việc tốt ông làm theo những điều đã chép trong Luật Pháp của CHÚA, 27những hoạt động của ông, từ đầu đến cuối, này, chúng đều được chép trong sách Các Vua của I-sơ-ra-ên và Giu-đa.