11

Yêhôva Ton Ăn Puăch

1Phung ƀon lan ngơi ƀrôk tăng ma tôr Yêhôva yor nau hŏt khân păng. Tơlah Yêhôva tăng nau nây, păng hao ji nuih, jêh ri ŭnh Yêhôva su ta nklang khân păng, jêh ri ŭnh sa ta pĭt ntŭk rmlak. 2Nôk nây phung ƀon lan nter ma Y-Môis; Y-Môis mbơh sơm ma Yêhôva, jêh ri ŭnh rngơt ro. 3Pôri bu ntơ ntŭk nây Tabêra, yorlah ŭnh Yêhôva hŏ su ta nklang khân păng. 4Phung bu năch gŭ ta nklang phung Israel geh nau ŭch kơnh ngăn; jêh ri nđâp phung ƀon lan Israel kŏ tât nhĭm đŏng jêh ri lah, "Mbu sâm ăn ma he puăch sa? 5He kah gĭt ma ka he sa dơm ta n'gor bri Êjipt, rpŭng, rpŭng tôk, kdĭm, jiăm jêh ri toi. 6Aƀaơ ri, nau nđơr, he lĕ hŭch jêh, mâu geh du ntil ndơ ôh măt he saơ, kanŏng mana." 7Mana jêng nâm bu găr kôriander, uănh nâm bu lŭ bêdêlium. 8Phung ƀon lan hăn bra mana, jêh ri vâr ăn lêk păng mâu lah juh păng đah mpăl, jêh ri gâm păng tâm glah jêh ri ƀư ƀănh; sa păng nâm bu sa ƀănh gŭch geh pot dak play ôlivơ. 9Tơlah dak ngom tŭp dôl măng ta nhuang ntŭk rmlak, pôri mana ăt tŭp đŏng. 10Y-Môis tăng phung ƀon lan gŭ nhĭm tâm lĕ rngôch phung mpôl khân păng, ăp nơm ta mpông ngih bok păng. Nau Yêhôva ji nuih hit duh ngăn, jêh ri Y-Môis rngot. 11Y-Môis lah ma Yêhôva. "Mâm may ƀư jêr ma oh mon may? Jêh ri mâm gâp dĭng mâu saơ nau yô̆ ôh ta năp măt may, kŏ tât may ăn tŭp nau jâk lĕ rngôch phung ƀon lan aơ ta gâp? 12Gâp hĕ ntreo ma lĕ rngôch phung ƀon lan aơ? Geh gâp hĕ deh ma khân păng kŏ tât may lah ma gâp.' Chông khân păng ta ntang ntơh may, nâm bu du huê rong kon se hôm e pu toh, tât ta n'gor may sơm ton ăn jêh gay ăn ma phung chô che khân păng?' 13Ta ntŭk gâp sŏk puăch gay ăn ma lĕ rngôch phung ƀon lan aơ? Yor lah khân păng ta năp gâp jêh ri lah, 'Ăn ma hên puăch sa.' 14Êng gâp mâu dơi anh lĕ rngôch phung ƀon lan aơ, khân păng jêng jâk ir ma gâp.
15Tơlah may ƀư pô aơ ma gâp, nkhĭt hom gâp aƀaơ ro, tơlah gâp mâu geh nau yô̆ ta năp măt may, gay lơi ăn gâp saơ ôh nau rêh ni gâp." 16Yêhôva lah ma Y-Môis, "Rgum hom ăn gâp pơh jê̆t nuyh bu klâu phung bu bŭnh bu ranh Israel, đơ phung may gĭt năl jêh jêng bu ranh tâm phung ƀon lan jêh ri kôranh ta kalơ khân păng; jêh ri njŭn leo khân păng rlet ngih bok tâm rƀŭn, jêh ri ăn khân păng gŭ ngao ndrel ma may. 17Gâp ma trŭnh jêh ri ta nây gâp mra ngơi ma may; gâp mra sŏk Huêng Brah gŭ ta kalơ may jêh ri dơm păng tâm ban đŏng ta kalơ khân păng; jêh ri khân păng mra anh nau jâk phung ƀon lan ndrel ma may, gay ma may mâu anh êng may ôh nau nây. 18Lah hom ma phung ƀon lan, prăp ăn kloh hom khân may nơm ma ôi taơ, jêh ri khân may mra sa puăch; yorlah khân may nhĭm jêh tăng ma tôr Yêhôva. "Mbu mra ăn ma hên puăch sa? Yorlah ueh jêh ma hên gŭ tâm bri Êjipt." Pôri Yêhôva mra ăn puăch ma khân may, jêh ri khân may mra sa. 19Khân may mra sa mâu di ôh kanŏng du nar dơm, mâu lah bar nar, mâu lah prăm nar, mâu lah jê̆t nar, mâu lah bar jê̆t nar. 20Ƀiălah lĕ du khay, kŏ tât puăch nây luh du ta trôm muh khân may jêh ri tât khân may tâm rmot ma ndơ nây, yorlah khân may dun jêh ma Yêhôva nơm gŭ ta nklang khân may, jêh ri nhĭm ta năp păng lah, "Mâm hên dĭng du luh nkhơng tă bơh n'gor bri Êjipt." 21Ƀiălah lah Y-Môis lah, "Phung ƀon lan gâp gŭ ndrel geh prao rsen bunuyh hăn brô̆ jâng; jêh ri may lah jêh, "Gâp mra ăn puăch ma khân păng, gay ăn khân păng sa lĕ du khay! 22Bu mra sreh ma khân păng biăp jêh ri ndrôk tât dơi tŏng ma khân păng lĕ? 23"Yêhôva lah ma Y-Môis, "Ti Yêhôva jêng gleh ir lĕ? Aƀaơ ri may mra saơ gĭt lah nau gâp ngơi jêh mra tât ngăn mâu lah mâu."

Phung Bu Bŭnh Bu Ranh Mbơh Lor

24Pô nây Y-Môis du luh hăn mbơh ma phung ƀon lan nau Yêhôva ngơi; jêh ri rgum pơh jê̆t nuyh phung bu ranh tâm phung ƀon lan jêh ri dơm khân păng gŭ jŭm ngih bok. 25Nôk nây Yêhôva trŭnh tâm tŭk jêh ri ngơi ma Y-Môis. Păng sŏk Huêng Brah gŭ ta kalơ Y-Môis jêh ri dơm tâm ban đŏng ta kalơ pơh jê̆t nuyh phung bu ranh; jêh ri tơ lah Huêng Brah gŭ ta kalơ khân păng, khân păng mbơh lor. Ƀiălah khân păng mâu hôm ngơi mro pô nây ôh. 26Geh bar hê hôm e gŭ tâm nhuang ntŭk rmlak; du huê amoh păng Y-Eldat jêh ri du huê êng ntơ amoh Y-Mêdat, geh Huêng Brah gŭ ta kalơ khân păng. Ngơi mbơh lor tâm nhuang ntŭk rmlak. Bar hê aơ jêng tâm phung bu chih săk, ƀiălah khân păng mâu dơi hăn ma ngih bok ôh. 27Du huê bu klâu ndăm nchuăt hăn mbơh nau nây ma Y-Môis "Y-Êldat jêh ri Y-Mêdat gŭ ngơi mbơh lor tâm nhuang ntŭk rmlak." 28Jêh nây Y-Yôsuê, kon buklâu Y-Nun, jêng oh mon Y-Môis, du huê tâm phung păng săch jêh, lah "Hơi kôranh gâp Y-Môis, buay hom khân păng!" 29Ƀiălah Y-Môis lah ma păng, "May nach yor ma gâp? Gâp ŭch ma lĕ rngôch phung ƀon lan Yêhôva jêng phung kôranh mbơh lor, gay ma Yêhôva dơm Huêng Brah păng ta khân păng." 30Pô ri Y-Môis jêh ri phung bu ranh phung Israel sĭt ma nhuang ntŭk rmlak.

Yêhôva Njuăl Sĭm Gôi

31Yêhôva ăn du rôn sial khôm tă bơh dak mƀŭt, leo phung sĭm gôi ăn khân păng tŭp dăch nhuang ntŭk gŭ mbrach jŭm klăp du nar hăn mpeh du ding jêh ri gŭ mbrach mpeh du ding êng du nar hăn, klăp prêh tă kalơ neh bar hăt mbâl.
32Phungƀon lan dâk hăn dônh phung sĭm gôi tâm nar nây, măng nây jêh ri du nar ôi taơ; mbu dônh ƀhôi lơn geh bar jê̆t hômer; bu ih nthăng păng jŭm văr ntŭk rmlak. 33Puăch sĭm ăt hôm ta trôm bâr khân păng ê hŏ rvăn ôh, nau Yêhôva ji nuih hit hâr ma phung ƀon lan, jêh ri Yêhôva dong phung ƀon lan ma nau rêh ni toyh. 34Bu ntơ amoh ntŭk nây jêng Kibrôt-Hatawa, yorlah ta nây bu tâp brôi phung ƀon lan geh nuih n'hâm lên kơnh. 35Ntơm bơh Kibrôt-Hatawa phung ƀon lan dâk hăn tât Hasêrôt, jêh ri khân păng gŭ njơh ta Hasêrôt.

11

Dân sự lằm bằm. – Chọn bảy mươi người trưởng lão

1 Vả, dân sự bèn lằm bằm, và điều đó chẳng đẹp tai Đức Giê-hô-va. Đức Giê-hô-va nghe, cơn thạnh nộ Ngài nổi lên, lửa của Đức Giê-hô-va cháy phừng phừng giữa dân sự và thiêu hóa đầu cùng trại quân. 2 Dân sự bèn kêu la cùng Môi-se; Môi-se cầu xin Đức Giê-hô-va, thì lửa ngừng lại. 3 Người ta đặt tên chỗ nầy là Tha-bê-ra, vì lửa của Đức Giê-hô-va đã cháy giữa dân sự.
4 Bọn dân tạp ở trong dân Y-sơ-ra-ên sanh lòng tham muốn, đến đỗi dân Y-sơ-ra-ên lại khóc nữa mà rằng: Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt? 5 Chúng tôi nhớ những cá chúng tôi ăn nhưng không tại xứ Ê-díp-tô, những dưa chuột, dưa gang, củ kiệu, hành, và tỏi. 6 Bây giờ, linh hồn chúng tôi bị khô héo, không có chi hết! Mắt chỉ thấy ma-na mà thôi.
7 Vả, Ma-na hình như hột ngò, sắc như trân châu. 8 Dân sự đi tản ra và hốt lấy, rồi nghiền bằng cối xay, hay là giã bằng cối giã, nấu trong một cái nồi và làm bánh; nếm giống như bánh nhỏ có pha dầu. 9 Khi ban tối mù sương xuống trên trại quân, thì Ma-na cũng xuống nữa. 10 Vậy, Môi-se nghe dân sự khóc, mỗi người ở trong nhà mình tại nơi cửa trại mình; cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi lên phừng phừng, 11 và Môi-se lấy làm buồn bực về điều đó. Môi-se bèn thưa cùng Đức Giê-hô-va rằng: Sao Ngài làm cho tôi tớ Ngài buồn? Sao tôi chẳng được ơn trước mặt Ngài, và sao Ngài lại chất gánh nặng của hết thảy dân sự nầy trên mình tôi? 12 Tôi há có thọ thai dân nầy sao? há có sanh đẻ nó sao? mà Ngài lại phán biểu tôi rằng: Hãy ẵm dân nầy trong lòng ngươi, như người cha nuôi bồng đứa trẻ bú, cho đến xứ mà Ngài có thề hứa ban cho tổ phụ của chúng nó. 13 Tôi sẽ có thịt ở đâu đặng phát cho cả dân sự nầy? bởi vì họ khóc về tôi mà rằng: Hãy cho chúng tôi thịt ăn. 14 Tôi không thế một mình gánh hết dân sự nầy, vì thật là rất nặng nề cho tôi quá! 15 Nếu Chúa đãi tôi như vậy và nếu tôi được ơn trước mặt Chúa, xin thà giết tôi đi, để tôi không thấy sự khốn nạn tôi!
16 Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng: Hãy nhóm hiệp cho ta bảy mươi người trong bực trưởng lão Y-sơ-ra-ên, tức là những kẻ ngươi biết là trưởng lão và cai quản dân sự; hãy dẫn các người ấy đến hội mạc, đứng tại đó với ngươi. 17 Đoạn, ta sẽ ngự xuống, nói chuyện tại đó với ngươi; ta sẽ lấy Thần cảm ngươi mà ban cho những người đó, để họ chịu gánh nặng về dân sự với ngươi, và ngươi không phải gánh một mình. 18 Ngươi phải truyền cho dân sự rằng: Ngày mai phải dọn mình ra thánh, thì các ngươi sẽ ăn thịt. Vì chưng lỗ tai Đức Giê-hô-va có nghe các ngươi khóc mà rằng: Ai sẽ cho chúng tôi ăn thịt, vì chúng tôi lấy làm sung sướng tại xứ Ê-díp-tô, --- bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va sẽ ban thịt cho các ngươi, thì các ngươi sẽ ăn. 19 Chẳng phải các ngươi sẽ ăn thịt một ngày, hai ngày, năm ngày, mười ngày hay là hai mươi ngày đâu; 20 nhưng cho đến một tháng trọn, cho đến chừng nào thịt tràn ra lỗ mũi, và các ngươi ngán đi, vì các ngươi đã bỏ Đức Giê-hô-va ở giữa mình, và khóc trước mặt Ngài, mà rằng: Vì sao chúng tôi đã ra khỏi xứ Ê-díp-tô?
21 Môi-se thưa rằng: Trong dân sự tôi đương ở đây, có sáu trăm ngàn người đàn ông, mà Ngài có phán rằng: Ta sẽ phát thịt cho dân nầy ăn trong một tháng trọn. 22 Người ta há sẽ giết chiên và bò đến đỗi được đủ cho họ sao? hay là người ta há sẽ gom hết thảy cá dưới biển đến đỗi được đủ cho họ sao? 23 Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se rằng: Tay của Đức Giê-hô-va đã vắn lại sao? Ngươi sẽ xem thử điều ta đã phán cùng ngươi có xảy đến hay chăng.
24 Môi-se bèn đi ra, thuật lại các lời Đức Giê-hô-va cho dân sự, rồi nhóm hiệp bảy mươi người trong bực trưởng lão của dân sự, đặt để xung quanh Trại. 25 Đức Giê-hô-va bèn ngự xuống trong mây, phán cùng Môi-se; Ngài lấy Thần cảm người và ban cho bảy mươi người trưởng lão. Vừa khi Thần ở trên bảy mươi người trưởng lão, bèn được cảm động nói tiên tri, nhưng không cứ nói mãi.
26 Có hai người ở lại trong trại quân; một người tên là Ên-đát, một người tên là Mê-đát, được Thần cảm động, nói tiên tri tại trại quân. Hai người nầy thuộc về bọn được biên tên, nhưng không có đến hội mạc. 27 Một đứa trai trẻ chạy thuật lại cùng Môi-se rằng: Ên-đát và Mê-đát nói tiên tri trong trại quân. 28 Giô-suê, con trai của Nun, là người hầu việc Môi-se, đáp lại mà rằng: Hỡi Môi-se, chúa tôi, hãy cấm chúng nó! 29 Môi-se đáp rằng: Ngươi ganh cho ta chăng? Ôi! chớ chi cả dân sự của Đức Giê-hô-va đều là người tiên tri, và chớ chi Đức Giê-hô-va ban Thần của Ngài cho họ! 30 Môi-se và mấy người trưởng lão đều lui vào trại quân.

Những chim cút

31 Đức Giê-hô-va bèn khiến một trận gió nổi từ biển, dẫn những chim cút đến vải trên trại quân và xung quanh, bên nầy trải ra dài chừng một ngày đường đi, và bên kia trải ra dài chừng một ngày đường đi, khỏi mặt đất chừng hai thước bề cao. 32 Dân sự đứng dậy lượm những cút trong ngày đó, đêm đó và trọn ngày sau; ai lượm ít hơn hết có mười ô-me; người ta căng nó ra khắp chung quanh trại quân. 33 Thịt vẫn còn nơi răng, chưa nhai, thì cơn giận của Đức Giê-hô-va nổi lên cùng dân sự, hành dân sự một tai vạ rất nặng. 34 Người ta đặt tên chỗ đó là Kíp-rốt-Ha-tha-va; vì tại đó người ta chôn dân sự sanh lòng tham muốn.
35 Từ Kíp-rốt-Ha-tha-va dân sự đi đến Hát-sê-rốt, rồi ngừng lại tại đó.