22

1Leh anăn Y-Đawit lač, “Tinei yơh srăng jing anôk kơ sang Yêhôwa Aê Diê leh anăn tinei yơh jing anôk kơ knưl pioh kơ mnơ̆ng myơr čuh kơ Phung Israel yua.”

Klei Y-Đawit Mkra Čiăng Mdơ̆ng Sang Yang

2Y-Đawit mtă brei bi kƀĭn phung tue dôk hlăm čar Israel, leh anăn ñu mtă kơ phung krah boh tâo mkra boh tâo kơ bruă mdơ̆ng sang Aê Diê. 3Msĕ mơh Y-Đawit brei lu msei pioh ngă msei kđĭn kơ ƀăng bhă hlăm ƀăng jang leh anăn pioh ngă msei bi đuôm ƀăng bhă, wăt kông lu êdimima tơl amâo dưi mkă ôh, 4leh anăn kyâo sêdar amâo dưi yap ôh; kyuadah phung Sidôn leh anăn phung Tir ba lu snăk kyâo sêdar kơ Y-Đawit. 5Kyuadah Y-Đawit lač, “Y-Salômôn anak êkei kâo ăt hlăk ai ka thâo bruă ôh, leh anăn sang čiăng mdơ̆ng kơ Yêhôwa srăng jing siam kdrăm êdimima, mâo klei hing ang leh anăn guh kơang tar ƀar jih čar; snăn yơh kâo srăng mkra kơ bruă anăn.” Snăn Y-Đawit duah bi mâo lu mnơ̆ng êlâo ñu djiê.
6Leh anăn ñu iêu Y-Salômôn anak êkei ñu, leh anăn mtă kơ gơ̆ brei mdơ̆ng sa boh sang kơ Yêhôwa Aê Diê Israel. 7 Y-Đawit lač kơ Y-Salômôn, “Ơ dam, ai tiê kâo mâo klei čiăng mdơ̆ng sa boh sang kơ Anăn Yêhôwa Aê Diê kâo. 8Ƀiădah Yêhôwa blŭ kơ kâo, lač, ‘Ih tuh leh lu êrah leh anăn ngă leh lu klei bi blah prŏng; ih amâo srăng mdơ̆ng sa boh sang kơ Anăn kâo ôh, kyuadah ih tuh leh lu êrah đei ti anăp kâo ti dlông rŏng lăn ala. 9Nĕ anei, arăng srăng kkiêng kơ ih sa čô anak êkei; ñu srăng jing sa čô êkei êđăp ênang. Kâo srăng brei kơ ñu klei êđăp ênang mơ̆ng jih jang phung roh jŭm dar ñu, kyuadah anăn ñu srăng jing Y-Salômôn, leh anăn kâo srăng brei klei êđăp ênang leh anăn klei mdei kơ phung Israel hlăm ênuk ñu. 10Ñu srăng mdơ̆ng sa boh sang kơ anăn kâo. Ñu srăng jing anak êkei kâo, leh anăn kâo srăng jing ama ñu, leh anăn kâo srăng bi kjăp jhưng mtao ñu hlăm čar Israel nanao hlŏng lar.’ 11Ară anei, Ơ dam, brei Yêhôwa dôk mbĭt hŏng ih, snăn kơh ih dưi mdơ̆ng sang kơ Yêhôwa Aê Diê ih, tui si ñu blŭ leh klei djŏ kơ ih. 12Knŏng akâo kơ Yêhôwa brei kơ ih klei thâo mĭn leh anăn klei thâo săng, čiăng kơ tơdah ñu brei bruă kơ ih kiă kriê phung Israel ih dưi djă pioh klei bhiăn Yêhôwa Aê Diê ih. 13 Snăn ih srăng mâo klei čăt jing tơdah ih răng čiăng djă pioh klei bhiăn leh anăn klei mtă Yêhôwa brei leh kơ Y-Môis djŏ kơ phung Israel. Jing ktang bĕ, leh anăn jing jhŏng bĕ. Đăm huĭ ôh, đăm êdu ai ôh. 14Hŏng klei suăi snăk kâo duah leh čiăng bi mâo mnơ̆ng mkra sang Yêhôwa, sa êtuh êbâo talăng mah, sa klăk talăng prăk, leh anăn kông wăt msei amâo dưi mkă ôh, kyuadah mâo lu đei. Kâo duah bi mâo leh kyâo leh anăn boh tâo msĕ mơh. Brei ih lŏ thiăm kơ mnơ̆ng anei. 15Ih mâo êbeh dlai mnuih mă bruă: phung krah boh tâo, phung mdơ̆ng boh tâo, phung krah kmeh, leh anăn djăp mta phung mbruă amâo dưi yap ôh, phung knhăk ngă bruă 16hŏng mah, prăk, kông, leh anăn msei. Kgŭ ngă bĕ! Akâo kơ Yêhôwa dôk mbĭt hŏng ih!”
17Msĕ mơh Y-Đawit mtă leh kơ jih jang phung khua Israel brei đru Y-Salômôn anak êkei ñu, lač, 18“Amâo djŏ hĕ Yêhôwa Aê Diê diih dôk mbĭt hŏng diih? Leh anăn amâo djŏ hĕ ñu brei leh klei êđăp ênang kơ diih jŭm gah găn? Kyuadah ñu jao leh phung dôk hlăm čar kơ kngan kâo; leh anăn čar mŭt leh diih ti anăp Yêhôwa leh anăn phung ƀuôn sang ñu. 19Ară anei čuăn bĕ hlăm klei mĭn leh anăn ai tiê diih čiăng duah Yêhôwa Aê Diê diih. Kgŭ bĕ leh anăn mdơ̆ng anôk doh jăk kơ Yêhôwa Aê Diê, čiăng kơ hip klei bi mguôp Yêhôwa leh anăn čhiên mngan doh jăk Aê Diê arăng dưi ba mŭt dưm hlăm sa boh sang mdơ̆ng leh kơ anăn Yêhôwa.”

22

1Đa-vít nói, “Đền Thờ của CHÚA là Thượng Đế và bàn thờ của dân Ít-ra-en để dâng của lễ thiêu sẽ được xây tại đây.”

Đa-vít lập đồ án cho đền thờ

2Vậy Đa-vít ra lệnh cho các người ngoại quốc sống trong Ít-ra-en họp lại. Rồi trong số đó ông chọn ra những thợ đẽo đá để đục đá dùng trong việc xây đền thờ của Thượng Đế. 3Đa-vít cung cấp một số lượng sắt rất lớn dùng làm đinh và bản lề cho các cửa. Ông cũng cung cấp đồng nhiều đến nỗi không thể cân, 4và gỗ hương nam nhiều không thể đếm được. Hầu hết gỗ hương nam được dân Xi-đôn và Tia mang đến.
5Đa-vít nói, “Chúng ta nên cất một đền thờ vĩ đại cho CHÚA để khắp nơi vang danh về sự vĩ đại và xinh đẹp của nó. Nhưng Sô-lô-môn con trai ta hãy còn nhỏ. Nó chưa học biết điều nó cần biết nên ta phải chuẩn bị đền thờ cho nó.” Vậy Đa-vít sắm sửa các vật liệu cần dùng trước khi ông qua đời.
6Rồi Đa-vít gọi Sô-lô-môn con mình đến dặn xây cất đền thờ cho CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. 7Đa-vít bảo ông, “Con ơi, cha muốn xây một đền thờ để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của cha. 8Nhưng CHÚA phán cùng ta, ‘Đa-vít, ngươi đã giết nhiều người, đánh nhiều trận. Ngươi không thể nào xây đền thờ để thờ phụng ta vì ngươi đã giết nhiều người. 9Nhưng ngươi sẽ có một con trai, một người hiếu hòa và an tịnh. Ta sẽ ban sự an tịnh để nó tránh khỏi các kẻ thù quanh nó. Tên nó sẽ là Sô-lô-môn, và ta sẽ ban cho Ít-ra-en hòa bình và an tịnh trong đời nó trị vì. 10Sô-lô-môn sẽ xây một đền thờ để thờ phụng ta. Nó sẽ làm con ta, ta sẽ làm cha nó. Ta sẽ làm cho nước nó vững mạnh; lúc nào cũng sẽ có người trong gia đình nó trị vì trên Ít-ra-en đời đời.’”
11Đa-vít bảo, “Bây giờ, con ơi, nguyện CHÚA ở cùng con. Nguyện con xây một đền thờ cho CHÚA là Thượng Đế con như Ngài đã phán. 12Ngài sẽ lập con làm vua trên Ít-ra-en. Nguyện CHÚA ban cho con sự khôn ngoan và hiểu biết để con vâng theo mọi lời giáo huấn của CHÚA là Thượng Đế con. 13Hãy cẩn thận vâng theo các qui tắc và luật lệ CHÚA ban cho Ít-ra-en qua Mô-se. Nếu con vâng giữ những điều đó con sẽ thành công. Hãy mạnh dạn và can đảm. Đừng hoảng sợ hay nản chí.
14Sô-lô-môn ơi, cha đã hết sức thu góp các vật liệu để xây cất đền thờ cho CHÚA. Ta đã cung ứng khoảng ba ngàn bốn trăm năm mươi tấn vàng, khoảng ba mươi bốn tấn rưỡi bạc, còn đồng và sắt thì nhiều vô kể không thể cân được, gỗ và đá cũng vậy. Con có thể thêm vào số đó nữa. 15Con có nhiều nhân công: thợ đẽo đá, thợ nề, thợ mộc, và những thợ khéo trong nhiều nghề. 16Họ có tài làm đồ bằng vàng, bạc, đồng, và sắt. Con có vô số thợ khéo trong tay. Bây giờ hãy khởi công. Nguyện CHÚA ở cùng con.”
17Rồi Đa-vít ra lệnh cho các lãnh tụ của Ít-ra-en giúp đỡ Sô-lô-môn, con mình. 18Đa-vít bảo họ, “CHÚA là Thượng Đế các ngươi ở cùng các ngươi. Ngài đã ban cho các ngươi sự an tịnh khỏi các kẻ thù. CHÚA và dân Ngài cai trị xứ nầy. 19Bây giờ hãy hết lòng vâng lời CHÚA là Thượng Đế các ngươi. Hãy xây nơi thánh cho CHÚA; hãy xây đền để thờ phụng Ngài rồi mang Rương Giao Ước với CHÚA cùng các vật thánh thuộc về Thượng Đế vào trong đền thờ.”