16

Klei Yêhôwa Phat Kđi Phung Ƀuôn Sang

1Yêhôwa blŭ kơ kâo: 2“Đăm ih dôk mô̆ ôh, kăn kkiêng kơ phung anak êkei amâodah anak mniê rei hlăm anôk anei.” 3Kyuadah snei Yêhôwa lač djŏ kơ phung anak êkei leh anăn mniê kkiêng hlăm anôk anei, leh anăn djŏ kơ phung amĭ ama kkiêng kơ digơ̆ hlăm čar anei: 4“Diñu srăng djiê hŏng klei ruă tưp bi mdjiê. Arăng amâo srăng čŏk hia kơ diñu ôh, kăn arăng srăng dơr diñu rei; diñu srăng jing msĕ si hbâo ti rŏng lăn. Diñu srăng djiê hŏng đao gưm leh anăn klei ư̆ êpa, leh anăn atâo diñu srăng jing mnơ̆ng ƀơ̆ng kơ čĭm hlăm adiê leh anăn kơ hlô hlăm dliê.”
5Kyuadah Yêhôwa lač snei: “Đăm mŭt hlăm sang kơŭ kyăm ôh, amâodah nao čŏk hia kơ diñu; kyuadah kâo sua mă leh klei êđăp ênang kâo mơ̆ng phung ƀuôn sang anei,” Yêhôwa lač, “Wăt klei jăk kâo leh anăn klei pap mơh.” 6“Phung arăng mpŭ leh anăn phung amâo yuôm ôh srăng djiê hlăm čar anei; arăng amâo srăng dơr diñu ôh, leh anăn amâo mâo pô čŏk hia, riêk asei mlei pô, amâodah kuêh ƀŭk kyua diñu ôh. 7Amâo mâo pô srăng kjoh bi mbha kpŭng kơ phung kơŭ kyăm ôh, čiăng bi juh diñu kyua mnuih djiê; kăn srăng mâo pô rei brei kčok êa mnăm kơ klei bi juh kyua ama amâodah amĭ ñu. 8Đăm mŭt ôh hlăm sang huă mnăm čiăng dôk gŭ ƀơ̆ng huă mnăm mbĭt hŏng diñu. 9 Kyuadah snei Yêhôwa kơ phung kahan, Aê Diê Israel lač: ‘Nĕ anei, kâo srăng bi mdei hĕ mơ̆ng anôk anei ti anăp ală ih hlăm ênuk ih asăp klei mmuñ leh anăn klei hơ̆k mơak, asăp êkei dơ̆ng dôk mô̆ leh anăn asăp mniê dơ̆ng dôk ung.’
10Tơdah ih hưn kơ phung ƀuôn sang anei jih jang klei anei, leh anăn diñu lač kơ ih, ‘Si ngă Yêhôwa hưn leh jih jang klei jhat anei srăng truh kơ hmei? Ya klei wê hmei ngă leh? Ya klei soh hmei ngă leh hŏng Yêhôwa Aê Diê hmei?’ 11snăn brei ih lač kơ diñu: ‘Kyuadah phung aê diih lui leh kâo, Yêhôwa lač, leh anăn tui hlue leh phung yang mkăn, mă bruă leh anăn kkuh mpŭ leh kơ digơ̆, leh anăn lui wir kâo leh anăn amâo djă pioh ôh klei bhiăn kâo, 12leh anăn kyuadah diih ngă soh hĭn kơ phung aê diih, kyuadah nĕ anei, grăp čô diih tui klei khăng ai tiê ñu čiăng jhat, hngah amâo čiăng dôk hmư̆ kâo ôh; 13kyuanăn kâo srăng suôt diih mơ̆ng čar anei truh kơ čar mkăn, čar diih leh anăn phung aê diih amâo tuôm thâo kral ôh, leh anăn tinăn diih srăng mă bruă kơ phung yang mkăn hruê mlam, kyuadah kâo amâo srăng pap kơ diih ôh.’ ”
14“Kyuanăn nĕ anei, hruê srăng truh Yêhôwa lač, arăng amâo srăng lŏ lač ôh, ‘Tui si Yêhôwa dôk hdĭp, pô atăt leh phung ƀuôn sang Israel kbiă mơ̆ng čar Êjip,’ 15ƀiădah arăng srăng lač, ‘Tui si Yêhôwa dôk hdĭp, pô atăt phung ƀuôn sang Israel kbiă mơ̆ng čar dưr leh anăn mơ̆ng jih jang čar ñu suôt leh digơ̆.’ Kyuadah kâo srăng atăt diñu wĭt kơ čar diñu pô kâo brei leh kơ phung aê diñu.”
16“Nĕ anei, kâo dôk tiŏ nao lu phung trah kan,” Yêhôwa lač, “Leh anăn diñu srăng mă phung ƀuôn sang Israel; êdei tinăn kâo srăng tiŏ nao lu phung hiu mnah, leh anăn diñu srăng hiu lua mnah phung ƀuôn sang Israel mơ̆ng grăp čư̆ leh anăn grăp kbuôn, leh anăn mơ̆ng ƀăng boh tâo kđang. 17Kyuadah ală kâo dôk dlăng kơ jih êlan diñu êbat; êlan anăn amâo mâo hgăm kơ kâo ôh, kăn klei wê diñu jing hgăm kơ ală kâo rei. 18Leh anăn Kâo srăng bi wĭt dua bliư̆ lu hĭn kơ klei wê leh anăn klei soh diñu, kyuadah diñu bi mčhŏ leh čar kâo hŏng atâo rup yang diñu, mnơ̆ng anăn kâo bi êmut kheh, leh anăn bi bŏ ngăn dưn kâo hŏng klei jhat diñu ngă.”
  19Ơ Yêhôwa, klei ktang kâo leh anăn kđông kjăp kâo,
   anôk kâo đuĕ dăp êjai hruê mâo klei rŭng răng,
  kơ ih yơh phung găp djuê mnuih srăng hriê
   mơ̆ng knhal lăn ala leh anăn lač:
  “Phung aê hmei dưn knŏng klei luar,
   mnơ̆ng hơăi mang amâo mâo klei tŭ dưn ôh.
  20Dưi mơ̆ mnuih mjing phung yang kơ ñu pô?
   Dŏ msĕ snăn amâo jing yang sĭt ôh!”

  21“Kyuanăn nĕ anei, kâo srăng brei diñu thâo,
   sa bliư̆ anei kâo srăng brei diñu thâo
  klei ktang leh anăn klei myang kâo,
   leh anăn diñu srăng thâo anăn kâo jing Yêhôwa.”

16

Cuộc Ðời và Sứ Ðiệp của Giê-rê-mi-a

1Có lời của CHÚA đến với tôi, 2“Ngươi chớ cưới vợ, ngươi đừng có các con trai và các con gái trong đất nước nầy. 3Vì CHÚA phán thế nầy về các con trai và các con gái được sinh ra ở nơi đây, về những người mẹ sẽ đẻ ra chúng, và về những người cha sẽ sinh ra chúng trong xứ nầy, 4‘Chúng sẽ chết vì các bịnh nan y. Chúng sẽ không được ai than khóc và cũng không được ai chôn cất. Thân xác chúng sẽ tan rữa như phân trên mặt đất. Chúng sẽ chết vì gươm và nạn đói, và thân xác chúng sẽ thành thức ăn cho chim trời và thú vật trên đất.’”
5Vì CHÚA phán thế nầy, “Ðừng vào nhà có tang để than van và khóc lóc tiếc thương chúng, vì Ta đã cất đi sự bình an, tình thương, và lòng thương xót của Ta đối với dân nầy,” CHÚA phán. 6“Già trẻ giàu nghèo trong xứ nầy đều sẽ chết. Chúng sẽ không được chôn cất và không còn ai để than khóc thương tiếc chúng. Không ai sẽ nghiến răng than khóc hay cạo đầu để tang cho chúng. 7Không ai sẽ mang thức ăn cho những kẻ đang than khóc người thân qua đời hầu chia buồn với chúng. Không ai sẽ mời chúng uống một ly rượu phân ưu vì cha hay mẹ của chúng qua đời.
8Ngươi sẽ không vào nhà có tiệc tùng, ngồi với chúng, ăn, và uống, 9vì CHÚA các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế nầy, ‘Ta sẽ làm im bặt khỏi nơi nầy tiếng reo cười và vui vẻ, tiếng hân hoan của cô dâu và chú rể lúc thành hôn ngay trong thời của các ngươi và trước mắt các ngươi.’
10Khi ngươi nói những lời ấy với dân nầy, và nếu chúng hỏi ngươi, ‘Tại sao CHÚA lại tuyên bố mọi điều dữ quá đỗi nầy với chúng tôi? Chúng tôi đã phạm tội gì? Chúng tôi đã làm điều gì có lỗi với CHÚA, Ðức Chúa Trời của chúng tôi?’ 11Bấy giờ ngươi sẽ bảo chúng: CHÚA phán: Bởi vì tổ tiên các ngươi đã lìa bỏ Ta mà theo các thần khác. Chúng đã phục vụ và thờ phượng các thần ấy; chúng đã bỏ Ta và không giữ luật pháp Ta, 12và vì các ngươi đã tệ hơn tổ tiên các ngươi, vì đây nầy, các ngươi hãy xem, ai nấy trong các ngươi đều làm theo lòng dạ xấu xa bướng bỉnh của mình mà không nghe theo lời Ta. 13Vì thế, Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi xứ nầy, để các ngươi sẽ vào một xứ mà chính các ngươi và tổ tiên các ngươi chưa từng biết, để ở đó các ngươi sẽ tha hồ phục vụ các thần khác cả ngày lẫn đêm, vì Ta không còn thương các ngươi nữa.”

CHÚA Sẽ Tái Lập I-sơ-ra-ên

14Vì thế, CHÚA phán, “Chắc chắn sẽ đến ngày khi người ta sẽ không còn nói, ‘Nguyện CHÚA Hằng Sống, Ðấng đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, làm chứng cho,’ 15nhưng sẽ nói, ‘Nguyện CHÚA Hằng Sống, Ðấng đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi đất bắc và ra khỏi những xứ Ngài đã đuổi họ tới làm chứng cho,’ vì Ta sẽ đem chúng trở về đất nước Ta đã ban cho tổ tiên chúng.”
16CHÚA phán, “Nhưng bây giờ Ta sai các ngư phủ ra để gom bắt chúng. Sau đó Ta sẽ sai nhiều thợ săn ra để họ săn bắt chúng trên mọi núi, mọi đồi, và mọi hốc đá, 17vì mắt Ta hằng theo dõi mọi đường lối của chúng. Chúng không thể giấu gì khỏi mặt Ta. Những tội ác của chúng không thể giấu được mắt Ta. 18Ta sẽ trả gấp đôi cho chúng những tội ác và tội lỗi của chúng, bởi vì chúng đã làm ô nhiễm đất của Ta bằng xác của các sinh vật chúng cúng tế cho các thần tượng gớm ghiếc, và chúng đã làm đầy dẫy trong cơ nghiệp của Ta những thứ gớm ghiếc ấy.”
  19“Lạy CHÚA, Ngài là sức mạnh và thành lũy của con,
  Ðấng con nương náu trong ngày hoạn nạn,
  Ðấng mà các dân ngoại ở những nơi cực kỳ xa xăm trên đất sẽ đến và thưa:
  Những gì tổ tiên chúng con đã thừa hưởng chỉ là những niềm tin dối trá,
  Ðó là những niềm tin vô dụng và chẳng đem lại lợi ích gì.
  20Làm sao loài người lại tạo ra các thần tượng cho mình?
  Những thứ đó thật ra nào phải là thần thánh gì đâu!”
  21“Vì thế, Ta chắc chắn sẽ dạy chúng;
  Nầy, Ta sẽ dạy cho chúng biết quyền năng và sức mạnh của Ta,
  Rồi chúng sẽ biết rằng danh Ta là CHÚA.”