1

Klei Kma Blŭ

1Ơ Y-Thêôphil, hlăm hdruôm hră tal êlâo kâo čih leh djŏ kơ jih jang klei Yêsu dơ̆ng ngă leh anăn mtô mơ̆ng mphŭn, 2truh ti hruê Aê Diê pŭ ba Ñu kơ dlông, leh Ñu brei klei mtă hŏng Yang Mngăt Jăk kơ phung khua ƀĭng kna Ñu ruah leh. 3Leh Ñu tŭ klei knap mñai, Ñu bi êdah Ñu pô hdĭp kơ digơ̆ hŏng lu klei bi knăl bi sĭt. Êjai pă pluh hruê Ñu bi êdah Ñu pô kơ digơ̆, leh anăn Ñu blŭ kơ digơ̆ djŏ kơ ƀuôn ala mtao Aê Diê. 4 Êjai Ñu dôk mbĭt hŏng digơ̆, Ñu mtă kơ digơ̆ đăm kbiă mơ̆ng ƀuôn Yêrusalem ôh, ƀiădah dôk guôn tơl truh klei Ama ƀuăn leh. Ñu lač, “Klei anăn kâo hưn leh kơ diih mơh, 5 kyuadah Y-Yôhan ngă leh ƀaptem hŏng êa, ƀiădah ăt dôk ƀiă hruê diih srăng tŭ klei ƀaptem hŏng Yang Mngăt Jăk.”

Yêsu Đĭ Wĭt kơ Adiê

6Snăn tơdah phung khua ƀĭng kna bi kƀĭn mbĭt hŏng Yêsu, digơ̆ êmuh kơ Ñu, “Ơ Khua Yang, djŏ mơ̆ ară anei ih srăng lŏ mdơ̆ng ƀuôn ala mtao Israel?” 7Yêsu lač kơ digơ̆, “Kơ ênuk amâodah yan Ama bi kčah leh tui si klei dưi Ñu pô amâo djŏ klei diih dưi thâo ôh. 8 Ƀiădah tơdah Yang Mngăt Jăk truh kơ diih; diih srăng mă tŭ klei myang leh anăn diih srăng jing phung hưn bi sĭt kơ kâo hlăm ƀuôn Yêrusalem, hlăm tar čar Yuđa, čar Samari, leh anăn tơl truh ti knhal lăn ala.” 9 Leh Ñu blŭ klei anăn, Aê Diê pŭ ba Ñu kơ dlông êjai phung khua ƀĭng kna Ñu dôk dlăng, leh anăn mâo knam guôm Ñu, leh anăn digơ̆ amâo lŏ ƀuh Ñu ôh. 10Êjai digơ̆ dôk dlăng amâo kƀreh ală kơ Yêsu đĭ phă adiê, bhiâo riâo rit mâo dua čô êkei hơô ao jhung kô̆ dôk dơ̆ng giăm digơ̆, 11leh anăn lač, “Ơ phung mnuih čar Galilê, si ngă diih dôk dơ̆ng dlăng kơ adiê lĕ? Yêsu anei, Pô Aê Diê pŭ ba leh kơ adiê mơ̆ng diih, srăng lŏ hriê msĕ si diih ƀuh Ñu đĭ kơ adiê mơh.”

Pô Hrô Bruă Y-Yuđas

12Êdei tinăn diñu wĭt kơ ƀuôn Yêrusalem mơ̆ng čư̆ arăng pia čư̆ Ôliwơ. Čư̆ anăn giăm ƀuôn Yêrusalem, sa wang bhiăn kơ arăng êbat hlăm hruê sabat. 13 Tơdah diñu mŭt leh hlăm ƀuôn, diñu đĭ kơ adŭ tal dlông ti anôk Y-Pêtrôs, Y-Yôhan, Y-Yakơ, Y-Andrê, Y-Philip, Y-Thômas, Y-Bartêlômi, Y-Mathiơ, Y-Yakơ anak êkei Y-Alphê, Y-Simôn Sêlôt, leh anăn Y-Yut anak êkei Y-Yakơ khăng dôk. 14Jih jang phung anăn sa ai dôk wah lač, mbĭt hŏng phung mniê, mbĭt hŏng H'Mari amĭ Yêsu, leh anăn hŏng phung ayŏng adei Yêsu.
15Đa hruê êdei kơ anăn Y-Pêtrôs kgŭ dơ̆ng ti krah phung ayŏng adei (mâo hlăm brô sa êtuh dua pluh čô), leh anăn lač, 16“Ơ phung ayŏng adei, bi sĭt leh Klei Aê Diê Blŭ čih, klei anăn Yang Mngăt Jăk hưn êlâo leh hŏng ƀăng êgei Y-Đawit, djŏ kơ Y-Yuđas pô atăt êlan kơ phung mă čăp Yêsu. 17Kyuadah ñu jing sa čô hlăm phung drei, leh anăn arăng jao kơ ñu mă bruă mbĭt hŏng drei. 18 (Êkei anăn blei leh sa bĭt hma hŏng prăk mưn klei soh ñu. Leh anăn ñu lĕ mkŭp, tian ñu kblač, leh anăn jih jang prôč tiê ñu kbiă kơ tač. 19Klei anăn jih jang mnuih ƀuôn Yêrusalem thâo leh, tơl arăng pia hma anăn hlăm klei diñu Hakêldama, čiăng lač Hma Êrah.) 20Kyuadah čih leh hlăm hdruôm hră Klei Mmuñ Hđăp,
  ‘Brei sang ñu dôk jing ênguôl,
   leh anăn đăm brei mnuih dôk tinăn ôh;’
leh anăn,
  ‘Brei sa čô mkăn hrô bruă ñu.’
21Snăn brei sa čô êkei hlăm phung tui hlue drei êjai jih hruê Khua Yang Yêsu hiu mbĭt hŏng drei, 22 dơ̆ng mơ̆ng hruê Y-Yôhan ngă ƀaptem truh ti hruê Aê Diê pŭ ba Ñu kơ dlông mơ̆ng phung drei, brei sa čô hlăm phung anei jing pô hưn bi sĭt mbĭt hŏng drei kơ klei Yêsu kbiă lŏ hdĭp.” 23Diñu mdah dua čô, Y-Yôsep arăng pia Y-Barsabas, lŏ bi anăn Y-Yustus, leh anăn Y-Mathias. 24Leh anăn diñu wah lač, “Ơ Khua Yang, Pô thâo leh ai tiê jih jang mnuih, bi êdah kơ hmei hlei pô hlăm dua čô anei ih ruah, 25čiăng kơ ñu djă bruă anăn jing khua ƀĭng kna hrô anôk Y-Yuđas lui hĕ leh, čiăng nao kơ anôk gơ̆ pô.” 26Êdei tinăn diñu bi mđăo kơ dua čô anăn, leh anăn klei mđăo djŏ kơ Y-Mathias; snăn arăng yap ñu mbĭt hŏng phung pluh sa čô khua ƀĭng kna.

1

Thưa Ngài Thê-ô-phi-lơ,

1Trong quyển thứ nhất, tôi có tường thuật đầy đủ mọi điều Đức Giê-su đã thực hiện và giáo huấn từ lúc ban đầu 2cho đến ngày được tiếp về trời, sau khi cậy Đức Thánh Linh truyền dạy các sứ đồ Ngài tuyển chọn. 3Sau cái chết thống khổ, Ngài tỏ mình đang sống bằng nhiều chứng cớ rõ ràng cho họ thấy. Ngài hiện đến với các sứ đồ suốt bốn mươi ngày và dạy bảo họ những điều về Nước Đức Chúa Trời. 4Trong khi họp mặt, Ngài căn dặn họ: “Các con đừng ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng phải chờ đợi điều Cha đã hứa, là điều các con đã nghe Ta nói. 5Vì Giăng đã làm báp-tem bằng nước nhưng ít ngày nữa, các con sẽ nhận báp-tem bằng Đức Thánh Linh.”
6Vì vậy những người đang họp với nhau, hỏi Ngài: “Lạy Chúa, có phải đây là lúc Chúa khôi phục vương quốc cho Y-sơ-ra-ên không?”
7Chúa đáp: “Các con không nên biết thì giờ hay thời kỳ, là điều thuộc quyền Cha định đoạt, 8nhưng các con sẽ nhận lãnh quyền năng khi Đức Thánh Linh đến trên các con, và các con sẽ làm nhân chứng cho Ta tại Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri, cho đến tận cùng quả đất.”
9Sau khi phán dạy xong các lời ấy, Chúa được tiếp đón về trời, đang lúc các môn đệ nhìn theo Ngài, một đám mây tiếp Ngài khuất đi, không còn trông thấy nữa.
10Họ còn chăm chú nhìn theo Ngài lên trời, bỗng có hai người nam mặc áo trắng hiện ra đứng bên họ, 11bảo: “Các người Ga-li-lê kia, sao các anh cứ đứng nhìn lên trời làm gì? Đức Giê-su này vừa được tiếp đón về trời khỏi các anh cũng sẽ trở lại như cách các anh thấy Ngài lên trời vậy!”
12Sau đó, họ từ núi Ô-liu về Giê-ru-sa-lem. Núi ấy ở gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách một quãng đường đi một ngày Sa-bát. 13Về đến nơi, họ lên lầu và ở tại đó. Hiện diện có Phê-rơ, Giăng, Gia-cơ, An-rê, Phi-líp, Thô-ma, Ba-thê-lê-mi, Ma-thi-ơ, Gia-cơ (con An-phê), Si-môn người thuộc nhóm Sê-lốt và Giu-đa (con Gia-cơ). 14Tất cả các người đó đều đồng tâm kiên trì cầu nguyện liên tục cùng với các bà và Ma-ri là mẹ Đức Giê-su và các em trai Ngài.
15Trong những ngày ấy, Phê-rơ đứng lên giữa nhóm anh em đông khoảng một trăm hai mươi người, 16và nói: “Thưa các anh em, lời Kinh Thánh mà Đức Thánh Linh đã phán từ xưa qua môi miệng Đa-vít phải được ứng nghiệm. Lời Chúa nói về Giu-đa, kẻ đã dẫn đường cho bọn người đi bắt Đức Giê-su. 17Hắn là một người trong số chúng tôi và dự phần vào chức vụ này.
18Giu-đa đã lấy tiền thưởng cho công tác tội ác đi mua một đám ruộng, nhưng nó ngã đâm đầu xuống giữa ruộng, bụng nứt, ruột đổ ra. 19Việc này cả dân Giê-ru-sa-lem đều biết rõ, nên họ gọi đám ruộng đó là Hắc-ên-đa-ma (nghĩa là Ruộng Huyết).
20Vì Thánh Thi đã chép:
  ‘Nguyện chỗ ở nó phải hoang tàn
   Và cũng không còn ai cư trú tại đó

  Nguyện một người khác thay thế chức vị nó!’
21Vì thế, cần phải chọn một người trong nhóm từng ở với chúng tôi suốt thời gian Chúa Giê-su đi lại giữa chúng ta, 22bắt đầu từ khi Giăng làm báp-tem cho đến ngày Đức Giê-su được tiếp lên trời khỏi chúng ta. Phải có một người trong nhóm này hiệp với chúng tôi làm nhân chứng về sự sống lại của Chúa!”
23Vậy, họ đề cử hai người: Giô-sép gọi là Ba-sa-ba (biệt danh là Giúc-tu) và Ma-thia, 24và cầu nguyện: “Lạy Chúa là Đấng biết rõ lòng dạ mọi người, xin Chúa chỉ cho chúng con biết ai là người Chúa chọn trong hai người này, 25để thay thế nhiệm vụ và chức sứ đồ của Giu-đa, kẻ đã từ bỏ để đi vào nơi riêng của nó!”
26Họ bắt thăm, trúng Ma-thia, nên ông được liệt vào hàng sứ đồ chung với mười một vị kia.