7

Phung Kahan Y-Gidêôn Dưi Hŏng Phung Madian

1Y-Jêrubaal (Y-Gidêôn) leh anăn jih jang kahan mbĭt hŏng ñu kgŭ ưm leh anăn nao jưh giăm akŏ êa Harôt. Phung Madian dôk jưh ti dưr diñu, hlăm tlung kbuôn Môrê.
2Yêhôwa lač kơ Y-Gidêôn, “Phung kahan mbĭt hŏng ih lu đei, kâo amâo jao phung Madian hlăm kngan diñu ôh, huĭdah phung Israel srăng bi mni kơ diñu pô, lač, ‘Kngan kâo pô bi mtlaih kâo leh.’ 3 Snăn ară anei, hưn bĕ kơ knga phung kahan, lač, ‘Kơ hlei pô huĭ leh anăn ktư̆ yơ̆ng brei ñu wĭt, đuĕ mơ̆ng čư̆ Galaat.’ ” Mâo dua pluh dua êbâo čô wĭt, leh anăn ăt dôk pluh êbâo čô.
4Yêhôwa lač kơ Y-Gidêôn, “Phung kahan ăt dôk lu đei. Brei diñu trŭn nao kơ êa leh anăn kâo srăng lông dlăng diñu tinăn. Hlei pô kâo srăng lač kơ ih, ‘Pô anei srăng nao mbĭt hŏng ih,’ ñu srăng nao yơh. Hlei pô kâo srăng lač, ‘Pô anei amâo srăng nao mbĭt hŏng ih,’ ñu amâo srăng nao ôh.” 5Snăn ñu atăt phung kahan trŭn nao kơ êa; leh anăn Yêhôwa lač kơ Y-Gidêôn, “Grăp čô hlei pô hlia êa hŏng êlah ñu msĕ si asâo hlia, brei ih dưm mdê hŏng grăp čô čuôn kơŭt čiăng mnăm.” 6Phung hlia êa mơ̆ng kngan diñu mâo tlâo êtuh čô mnuih; ƀiădah jih phung kahan mkăn čuôn kơŭt čiăng mnăm êa. 7Yêhôwa lač kơ Y-Gidêôn, “Hŏng tlâo êtuh čô êkei hlia êa kâo srăng bi mtlaih diih leh anăn jao phung Madian hlăm kngan diih. Brei jih jang phung mkăn wĭt.” 8Snăn ñu mă čeh leh anăn ki phung kahan mơ̆ng kngan digơ̆, leh anăn bi wĭt jih jang phung Israel mkăn, grăp čô kơ sang čhiăm ñu pô. Ƀiădah ñu kơ̆ng pioh phung tlâo êtuh čô. Anôk phung Madian jưh dôk ti gŭ ñu, hlăm tlung.
9Mlam anăn Yêhôwa lač kơ Y-Gidêôn, “Kgŭ bĕ, trŭn nao kơ kđông kyuadah kâo jao leh diñu hlăm kngan ih. 10Ƀiădah tơdah ih huĭ, brei ih trŭn nao mbĭt hŏng Y-Pura, dĭng buăl ih. 11Ih srăng hmư̆ klei diñu lač, êdei tinăn kngan ih srăng jing ktang čiăng trŭn ngă kơ kđông.” Leh anăn ñu trŭn nao mbĭt hŏng Y-Pura, dĭng buăl ñu kơ anôk gak ti knhal anôk phung kahan djă mnơ̆ng bi blah dôk. 12Phung Madian, phung Amalek, leh anăn jih jang phung ƀuôn sang mơ̆ng čar Ngŏ dôk hlue tlung lu msĕ si ktuôp; leh anăn aseh samô diñu lu tơl amâo dưi yap ôh, msĕ si čuah ti hang êa ksĭ. 13Hlăk Y-Gidêôn truh, nĕ anei mâo sa čô êkei yăl dliê hŏng găp ñu sa klei êpei. Ñu lač, “Nĕ anei, kâo mâo sa klei êpei; sa klŏ kpŭng mdiê ôrgơ klŭng hlăm kđông kahan phung Madian, truh ti sang čhiăm leh anăn drăm sang čhiăm anăn tơl gơ̆ lĕ buh, leh anăn lŏ mbliư̆ gơ̆ gŭ dlông. Snăn sang čhiăm anăn dlưh dôk ti lăn.” 14Ƀĭng găp ñu lŏ wĭt lač, “Sĭt nik anei jing đao gưm Y-Gidêôn anak êkei Y-Jôas, sa čô Israel. Aê Diê jao leh phung Madian leh anăn jih jang phung kahan hlăm kngan ñu.”
15Tơdah Y-Gidêôn hmư̆ leh klei yăl dliê kơ klei êpei leh anăn klei mblang kơ klei êpei anăn, ñu buôn kkuh; ñu lŏ wĭt kơ anôk phung Israel jưh leh anăn lač, “Kgŭ bĕ, kyuadah Yêhôwa jao leh phung kahan Madian hlăm kngan diih.” 16Ñu bi mbha phung tlâo êtuh čô mnuih anăn jing tlâo phung, leh anăn ñu brei jih phung kahan djă ki leh anăn čeh mbĭt hŏng pui kƀong hlăm čeh. 17Ñu lač kơ digơ̆, “Dlăng kơ kâo, leh anăn ngă msĕ mơh. Tơdah kâo truh kơ knhal kđông ngă tui si kâo ngă. 18Tơdah kâo leh anăn jih phung mbĭt hŏng kâo ayŭ ki, snăn brei phung dôk jŭm dar anôk jưh ayŭ ki mơh leh anăn driâo, ‘Kyua Yêhôwa leh anăn kyua Y-Gidêôn!’ ”
19Snăn, Y-Gidêôn leh anăn sa êtuh čô mbĭt hŏng ñu truh ti knhal anôk jưh hlăk phung gak tal dua dơ̆ng gak, tơdah mrâo bi mlih phung gak. Diñu ayŭ ki leh anăn bi mčah čeh diñu djă. 20Tlâo phung kahan anăn ayŭ ki leh anăn bi mčah čeh diñu djă, djă pui kƀong ti kngan điâo, leh anăn ti kngan hnuă diñu djă ki pioh ayŭ; leh anăn diñu driâo “Sa ƀĕ đao gưm kyua Yêhôwa leh anăn kyua Y-Gidêôn.” 21Grăp čô diñu dôk hlăm anôk ñu pô jŭm kđông, leh anăn jih jang phung kahan Madian êran, ur leh anăn đuĕ. 22Tơdah diñu ayŭ tlâo êtuh ƀĕ ki, Yêhôwa brei đao gưm grăp čô tlŏ găp ñu pô ngă kơ jih jang phung kahan. Phung kahan đuĕ nao truh ti ƀuôn Bet-Sita phă čar Sêrêra tơl truh ti kdriêl ƀuôn Aƀel-Mêhôla giăm ƀuôn Tabat. 23Arăng iêu phung Israel mơ̆ng phung Naptali, phung Aser, leh anăn jih phung Manasê, leh anăn diñu tiŏ phung Madian.
24Y-Gidêôn tiŏ nao mnuih hưn hlăm tar ƀar čar kngư Êphraim, lač, “Trŭn nao ngă bĕ kơ phung Madian leh anăn khăt êlan diñu găn êa truh ti ƀuôn Bet-Bara leh anăn wăt êa krông Yurdan.” Snăn jih jang phung êkei Êphraim nao leh anăn khăt êlan găn êa truh ti ƀuôn Bet-Bara leh anăn wăt êa krông Yurdan. 25Diñu mâo mă dua čô khua phung Madian, Y-Ôrep leh anăn Y-Sêep. Diñu bi mdjiê Y-Ôrep ti boh tâo Ôrep, leh anăn diñu bi mdjiê Y-Sêep ti anôk djiêt kpiê Sêep, êjai diñu tiŏ phung Madian; leh anăn diñu djă ba boh kŏ Y-Ôrep leh anăn Y-Sêep kơ Y-Gidêôn ti hang nah dih êa krông Yurdan.

7

Ghi-đê-ôn Đánh Bại Dân Ma-đi-an

1Sáng hôm sau, Giê-ru-ba-anh cùng tất cả quân binh dậy sớm và đến hạ trại bên suối Ha-rốt; còn trại của dân Ma-đi-an thì nằm trong thung lũng, về phía bắc của họ, dưới chân đồi Mô-rê.
2CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Đạo binh theo ngươi đông quá. Nếu Ta phó dân Ma-đi-an vào tay họ, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ tự phụ mà nói rằng: ‘Chính tay ta đã tự giải thoát lấy ta.’ 3Vậy bây giờ ngươi hãy truyền lịnh trong đạo binh rằng: ‘Ai cảm thấy run sợ và kinh hãi, thì hãy rời khỏi núi Ga-la-át mà trở về nhà đi.’ ” Thế là có hai mươi hai ngàn người ra về, chỉ còn mười ngàn người ở lại.
4CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Đạo binh hãy còn đông quá. Hãy bảo họ xuống uống nước, rồi tại đó Ta sẽ lựa ra cho ngươi. Khi Ta phán: ‘Kẻ nầy được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ đi với ngươi; và khi Ta phán: ‘Kẻ nầy không được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ không được đi với ngươi.”
5Vậy, ông truyền cho đạo binh xuống uống nước; và CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Tất cả những kẻ dùng lưỡi liếm nước như chó uống nước, thì ngươi hãy để họ ra một bên. Còn những ai cúi xuống uống nước, nhưng lấy tay bụm mà đưa lên miệng, thì ngươi hãy để họ ra một bên.” 6Chỉ có ba trăm người là bụm nước và đưa lên miệng uống, còn tất cả đều hụp xuống mà uống nước.
7CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Ta sẽ dùng ba trăm người bụm tay uống nước đó mà giải cứu các ngươi, và Ta sẽ phó dân Ma-đi-an vào tay ngươi. Hãy cho tất cả những người khác trở về nhà.” 8Vậy Ghi-đê-ôn cho tất cả những người Y-sơ-ra-ên ấy về nhà, mà chỉ giữ lại có ba trăm người. Rồi họ nhận lương thực và cầm những chiếc kèn trong tay. Vả, trại quân của dân Ma-đi-an nằm trong thung lũng, ở phía dưới.
9Đêm đó, CHÚA phán với Ghi-đê-ôn: “Hãy đứng dậy, xuống tấn công trại quân Ma-đi-an, vì Ta sẽ phó nó vào tay ngươi. 10Nhưng nếu ngươi sợ tấn công, thì hãy dẫn Phu-ra, đầy tớ ngươi, rồi cùng nó đi xuống đó. 11Ngươi hãy nghe điều chúng nói, rồi sau đó ngươi sẽ được phấn chí mà tấn công trại giặc.” Vậy Ghi-đê-ôn cùng Phu-ra, đầy tớ ông, lẻn tới gần trạm canh, ở đầu trại. 12Vả, dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc phương Đông dựng trại trong thung lũng đông như cào cào; lạc đà của chúng đông vô số, chẳng khác gì cát nơi bờ biển. 13Khi Ghi-đê-ôn đến, ông nghe một tên lính nói với bạn đồng đội hắn rằng: “Tôi nằm mơ, thấy có một cái bánh lúa mạch tròn lăn vào trại quân Ma-đi-an. Bánh ấy đụng vào trại làm cho trại bật ngã, khiến nó lật ngược từ trên xuống dưới, và làm cho trại bị sụp đổ.” 14Người bạn hắn đáp: “Điềm đó chẳng khác gì gươm của Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, người Y-sơ-ra-ên. Trời đã phó dân Ma-đi-an và tất cả đội quân nầy vào tay người ấy rồi.”
15Khi Ghi-đê-ôn nghe được điềm chiêm bao và nghe rõ lời giải nghĩa thì ông thờ lạy Đức Chúa Trời; rồi ông trở về trại quân Y-sơ-ra-ên và nói: “Hãy thức dậy! Vì CHÚA đã phó đội quân của dân Ma-đi-an vào tay anh em.” 16Sau khi ông chia ba trăm người thành ba đội, ông trao cho mỗi người một chiếc kèn, một bình không, và một cây đuốc trong bình; 17rồi ông bảo họ: “Anh em hãy để ý tôi. Hễ tôi làm sao thì anh em làm vậy. Khi tôi đến gần trại giặc, tôi làm thể nào thì anh em cứ làm theo thể ấy. 18Khi tôi và những người theo tôi thổi kèn, thì anh em cũng hãy thổi kèn quanh trại giặc và la lớn rằng: Vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!”
19Vậy Ghi-đê-ôn và một trăm người đi với ông đến vòng đai trại giặc vào khoảng giữa khuya, ngay sau khi đổi gác. Họ thổi kèn, đập vỡ bình cầm sẵn trong tay. 20Vậy cả ba đội cùng thổi kèn, đập vỡ bình, tay trái giơ cao ngọn đuốc, tay phải cầm kèn và thổi, xong họ la lớn: “Hãy tuốt gươm vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” 21Ai nấy cứ đứng y tại vị trí mình, quanh trại giặc. Bấy giờ cả trại quân đều vỡ chạy; chúng la hét và chạy trốn. 22Khi họ thổi ba trăm chiếc kèn, CHÚA khiến quân giặc rút gươm chém giết lẫn nhau, và cả đội quân tàn sát lẫn nhau. Tàn quân chạy thoát được trốn đến tận Bết Si-ta, về hướng Xê-rê-đa, và tận biên giới A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát. 23Dân Y-sơ-ra-ên từ các chi tộc Nép-ta-li, A-se, và Ma-na-se được tin báo, bèn cùng nhau đuổi giết dân Ma-đi-an.
24Bấy giờ Ghi-đê-ôn sai các sứ giả đến khắp miền núi Ép-ra-im kêu gọi: “Xin hãy xuống đánh dân Ma-đi-an và chiếm các chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông.” Vậy tất cả các nam đinh của Ép-ra-im kéo nhau ra. Họ chiếm giữ những chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông. 25Họ bắt sống hai tướng của quân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp ở tảng đá Ô-rếp, và giết Xê-ép ở vựa ép rượu Xê-ép. Họ tiếp tục truy đuổi dân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Xê-ép đến trình cho Ghi-đê-ôn lúc ấy đang ở bên kia sông Giô-đanh.