22

Y-Jôsia Jêh Ri Ndrom Sămƀŭt Nau Vay

1Y-Jôsia geh pham năm tơlah păng ntơm chiă uănh, jêh ri păng chiă uănh pe jê̆t ma nguay năm tâm ƀon Yêrusalem. Amoh mê̆ păng jêng H'Jêdida kon bu ur Y-Adaya bơh ƀon Bôskat. 2Păng ƀư nau di ta năp măt Yêhôva, jêh ri chuat tâm lĕ trong Y-David, chô-yau păng, jêh ri păng mâu teng mpeh pama mâu lah mpeh pachiau ôh.
3Tâm năm rơh jê̆t ma pham hađăch Jôsia, hađăch prơh hăn Y-Saphan, kon buklâu Y-Asalia, sau Y-Mêsulam, kôranh chih sămƀŭt, ma ngih Yêhôva, lah, 4"Hăn hao hom ma Y-Hilkia kôranh ƀư brah toyh, gay ma păng kơp prăk bu djôt leo jêh ma ngih Yêhôva; prăp phung chiă uănh mpông nkrem prăp jêh tă bơh ƀon lan, 5jêh ri ăn prăk nây ma phung pah kan chiă uănh ngih Yêhôva; gay ma khân păng jao tay ăn ma phung pah kan gŭ tâm ngih Yêhôva, gŭ nkra ngih bluh-sat. 6nâm bu ntĭt phung trah meh, phung ndâk, phung ndâk lũ jêh ri ma nau rvăt tơm si jêh ri lŭ trah jêh gay nkra ngih. 7Ƀiălah bu mêt uănh ôh prăk jao jêh ma phung khân păng, yorlah khân păng ƀư ma nau di."
8Y-Hilkia, kôranh ƀư brah toyh lah ma Y-Saphan kôranh chih sămƀŭt, "Gâp saơ jêh ndrom sămƀŭt nau vay tâm ngih Yêhôva." Y-Hilkia ăn ndrom sămƀŭt nây ma Y-Saphan, jêh ri păng uănh. 9Y-Saphan, kôranh chih sămƀŭt hăn tât ma hađăch jêh ri mbơh ma hađăch, "Phung oh mon may sŏk jêh lĕ prăk geh tâm ngih, jêh ri lĕ jao jêh prăk nây ma phung pah kan chiă uănh ngih Yêhôva." 10Jêh ri Y-Saphan, kôranh chih sămƀŭt, mbơh ma hađăch, "Y-Hilkia, kôranh ƀư brah toyh ăn ma gâp du ndrom sămƀŭt." Jêh nây Y-Saphan uănh sămƀŭt nay ta năp hađăch.
11Tơlah hađăch tăng jêh nau ngơi tă bơh ndrom sămƀŭt nau vay, păng nkhêk bok ao păng. 12Pô nây, hađăch ntĭnh ma Y-Hilkia kôranh ƀư brah toyh, ma Y-Ahikan kon buklâu Y-Saphan, ma Y-Akbôr kon buklâu Y-Mikaya, ma Y-Saphan, kôranh chih sămƀŭt, jêh ri ma Y-Asaya, oh mon hađăch, lah: 13"Hăn hom, ôp ma Yêhôva yor nây, yor phung ƀon lan, jêh ri ma lĕ rngôch phung Yuda, di đah nau ngơi tă bơh ndrom sămƀŭt bu saơ nây. Yorlah nau ji nuih Yêhôva hao nuih ma phung he toyh ngăn ngên, yorlah chô-yau he mâu tông ôh ma nau ngơi tâm ndrom sămƀŭt aơ, gay ƀư tĭng nâm lĕ rngôch chih jêh di ma phung he."
14Pô nây, kôranh ƀư brah Y-Hilkia, Y-Ahiham, Y-Akbôr, Y-Saphan, jêh ri Y-Asaya hăn ma H'Hulda, kôranh nơm mbơh lor bu ur, ur Y-Salum kon buklâu Y-Tikwa, sau Y-Harhas, nơm chiă uănh jrô bok ao; păng gŭ ta ƀon Yêrusalem, tâm nkual mrô bar, jêh ri khân păng nkoch ma ôbăl. 15Păng lah ma khân păng, "Pôaơ nau Yêhôva Brah Ndu lah, 16'Gâp mra ăn tât nau mhĭk ma ntŭk aơ jêh ri ma phung ƀon lan păng; lĕ rngôch nau ngơi tâm ndrom sămƀŭt hađăch Yuda hŏ uănh nây. 17Yorlah phung Yuda hŏ chalơi jêh Gâp, jêh ri su ndơ ƀâu n'hôl (ƀâu kah) ăn ma phung brah êng, kŏ tât khân păng nsônh gâp ji nuih ma lĕ rngôch kan ti khân păng ƀư. Yor nây gâp mra ji nuih ma ntŭk aơ, mâu dơi rngơt ôh, 18bi ma hađăch Yuda hŏ prơh hăn jêh khân may ôp ma Yêhôva, pôri mbơh hom ma păng pôaơ: Ma nau ngơi may hŏ tăng Yêhôva Brah Ndu Israel lah tâm ban pô nây: 19Tơlah may tăng nau gâp lah ŭch tâm rdâng đah ntŭk aơ, jêh ri đah phung ƀon lan păng tâm ban lĕ, ăn tât khân păng mra jêng rngol, jêh ri jêng ƀon lan ndơ bu rak rtăp, yorlah nuih n'hâm may rmal jêh, dêh rhêt ta năp măt Yêhôva, nkhêk bok ao may nơm jêh ri nhĭm ta năp măt gâp; yor nây gâp tâm ban lĕ iăt nau may jêh. 20Aơ, gâp mra rgum may ndrel ma phung chô-yau may; jêh ri may bu mra tâp tâm môch ma nau đăp mpăn, jêh ri măt may mâu mra saơ ôh lĕ rngôch nau mhĭk gâp mra ăn tât ma ntŭk aơ.'"
 Jêh ri khân păng leo đŏng nau ngơi nây ma hađăch.

22

Giô-si-a làm vua Giu-đa

(II Sử 34:1-28)

1Giô-si-a lên ngôi vua khi được tám tuổi, và cai trị ba mươi mốt năm tại Giê-ru-sa-lem. Mẹ vua tên là Giê-đi-đa, con gái của A-đa-gia, cháu Bốt-cát. 2Vua làm điều ngay thẳng dưới mắt Đức Giê-hô-va, đi theo trọn con đường của Đa-vít, tổ phụ mình, không tẽ tách bên phải hoặc bên trái.

Hinh-kia tìm được quyển luật pháp trong đền thờ

3Năm thứ mười tám đời trị vì của Giô-si-a, vua sai thư ký Sa-phan, con trai A-xa-lia, cháu Mê-su-lam, đến đền thờ Đức Giê-hô-va, và dặn rằng: 4“Hãy lên gặp thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia, và xin ông kiểm số bạc đã được dâng vào đền thờ Đức Giê-hô-va, tức là số bạc mà những người giữ cửa đền thờ đã thu nơi dân chúng. 5Hãy giao số bạc ấy cho những người lo việc sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va để họ giao lại cho thợ sửa chữa các nơi hư nứt của đền thờ, 6tức là thợ mộc, thợ xây cất và thợ hồ. Họ cũng dùng số bạc đó mua gỗ và đá chẻ để tu bổ đền thờ. 7Nhưng đừng buộc họ tính sổ về số bạc giao vào tay họ, vì họ làm việc rất trung thực.”
8Thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia nói với thư ký Sa-phan: “Tôi đã tìm được quyển luật pháp trong đền thờ Đức Giê-hô-va.” Hinh-kia trao quyển sách đó cho Sa-phan đọc. 9Sau đó, thư ký Sa-phan đến gặp vua và tâu trình: “Các đầy tớ của bệ hạ đã lấy số bạc có trong đền thờ, và giao tận tay những người phụ trách công việc sửa chữa đền thờ Đức Giê-hô-va.” 10Thư ký Sa-phan nói tiếp: “Thầy tế lễ thượng phẩm Hinh-kia có đưa cho tôi một quyển sách.” Rồi Sa-phan đọc sách đó cho vua nghe.
11Vừa nghe các lời của sách luật pháp, vua liền xé áo mình. 12Vua ra lệnh cho thầy tế lễ Hinh-kia, cho A-hi-cam, con trai Sa-phan, cho Ạc-bồ, con trai Mi-ca-gia, cho thư ký Sa-phan, và cho A-sa-gia, đầy tớ của vua, như sau: 13“Hãy đi cầu hỏi Đức Giê-hô-va cho ta, cho dân chúng, và cho cả Giu-đa, về các lời chép trong sách mới tìm được. Đức Giê-hô-va nổi giận phừng phừng cùng chúng ta, vì tổ phụ chúng ta đã không nghe theo các lời của sách nầy, và không làm theo điều đã truyền phán cho chúng ta.”
14Vậy, thầy tế lễ Hinh-kia, A-hi-cam, Ạc-bồ, Sa-phan, và A-sa-gia đi gặp nữ tiên tri Hun-đa, vợ của Sa-lum, người giữ áo lễ, con của Tiếc-va, cháu của Hạt-ha. Bà ấy ở quận hai của thành Giê-ru-sa-lem. Họ trình bày sự việc cho bà. 15Rồi bà nói với họ: “Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán thế nầy: Hãy nói với người sai các ngươi đến gặp ta rằng 16Đức Giê-hô-va phán: ‘Ta sắp giáng tai họa trên chỗ nầy và trên dân cư nó, đúng theo mọi lời được chép trong sách mà vua Giu-đa đã đọc. 17Vì dân nầy đã từ bỏ Ta, xông hương cho các thần khác và chọc giận Ta bằng mọi việc tay chúng làm, nên cơn giận của Ta nổi bừng lên cùng chỗ nầy, không hề nguôi.’ 18Còn về vua Giu-đa đã sai các ngươi cầu hỏi Đức Giê-hô-va, thì hãy nói với người về các lời người đã nghe rằng Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán thế nầy: 19‘Khi con nghe lời Ta phán nghịch cùng chỗ nầy và nghịch cùng dân cư nó rằng chỗ nầy sẽ trở nên hoang vu, dân cư bị nguyền rủa, thì con có lòng mềm mại, hạ mình xuống trước mặt Đức Giê-hô-va, xé áo mình và khóc lóc trước mặt Ta. Vì vậy, Ta đã nghe lời cầu nguyện của con. 20Nầy, Ta sẽ cho con sum họp với các tổ phụ, và con sẽ được an táng nơi phần mộ trong sự bình an. Mắt con sẽ chẳng thấy những điều tai họa mà Ta sắp giáng xuống nơi nầy.’”
 Họ trở về tâu lại cho vua những lời ấy.