1

Nau Rhăk Njêng Neh Ntu Jêh Ri Bunuyh

1Ntơm saơm e Brah Ndu rhăk njêng trôk jêh ri neh ntu. 2Neh ntu geh lŭk rlăk jêh ri hŏng, jêh ri nau ngo nkŭm ta kalơ mpiăt dak jru; jêh ri Brah Huêng Ueh Brah Ndu păn ta kalơ mpiăt dak.
3Brah Ndu lah: "Ăn geh nau ang;" jêh ri geh ro nau ang. 4Brah Ndu saơ nau ang nây jêng ueh; jêh ri Brah Ndu tâm pă nau ang bơh nau ngo. 5Brah Ndu rnha "nar" ma nau ang; jêh ri păng rnha "măng" ma nau ngo. Geh mhaơ jêh ri geh ôi, jêng nar tal nguay.
6Jêh ri Brah Ndu lah: "Ăn geh ntŭk hŏng ta nklang dak, jêh ri ăn păng tâm pă dak." 7Brah Ndu njêng ntŭk hŏng gay ma tâm pă dak tâm dâng bơh dak kalơ ntŭk hŏng. Jêh ri nau nây jêng ro. 8Brah Ndu rnha "trôk" ma ntŭk hŏng. Geh mhaơ jêh ri geh ôi jêng nar tal bar.
9Brah Ndu lah: "Ăn dak gŭ tâm dâng trôk rgum tâm du ntŭk, jêh ri ăn neh sơh mpơl." Pô ri nau nây jêng ro. 10Brah Ndu rnha "Neh" ma ntŭk sơh; jêh ri păng rnha "dak mƀŭt" ta ntŭk dak tâm rƀŭn. Brah Ndu saơ nau nây jêng ueh. 11Jêh ri Brah Ndu lah: "Ăn neh hon gơ̆ nse, trau geh rnih ntil, jêh ri tơm si play, geh ntil tĭng nâm ntil khân păng ta kalơ neh". Pô ri nau nây jêng ro. 12Neh hon gơ̆ nse, trau geh ntil tĭng nâm ntil khân păng. Brah Ndu saơ nau nây jêng ueh. 13Geh mhaơ jêh ri geh ôi, jêng nar tal pe.
14Brah Ndu lah: "Ăn geh rplay nau ang ta ntŭk hŏng tâm trôk, gay tâm pă nar bơh măng; ăn khân păng jêng ndơ dŏng tâm mpơl nau mbên, yăn, nar jêh ri năm. 15Nđâp ma ăn khân păng jêng rplay ang ta ntŭk hŏng tâm trôk gay ma sol neh ntu." Pô ri nau nây jêng ro. 16Brah Ndu njêng bar rplay ang toyh, rplay ang toyh lơn chiă tâm nôk nar, rplay ang jê̆ lơn chiă dôl măng. Păng njêng nđâp lĕ rngôch mănh. 17Brah Ndu dơm khân păng tâm ntŭk tâm trôk prăp sol ang neh ntu, 18gay chiă dôl nôk nar jêh ri măng, jêh ri tâm pă nau ang bơh nau ngo. Brah Ndu saơ nau nây jêng ueh. 19Geh mhaơ jêh ri geh ôi, jêng nar tal puăn.
20Brah Ndu lah: "Ăn dak geh âk ndơ rêh jêh ri geh sĭm mpăr ta kalơ neh ntu tâm ntŭk hŏng tâm lrôk." 21Pô ri Brah Ndu rhăk njêng ka toyh jêh ri lĕ rngôch ndơ rêh mpât nsong tâm dak bĭk rơ̆ tĭng nâm ntil khân păng. Brah Ndu saơ nau nây jêng ueh. 22Brah Ndu mât ton ma khân păng, lah: "Ăn lĕ rngôch deh kon ăn âk ăn bĭk, ăn bêng dak mƀŭt, jêh ri ăn sĭm ăn bĭk ta neh ntu." 23Geh mhaơ jêh ri geh ôi, jêng nar tal prăm. 24Brah Ndu lah: "Ăn neh ntu geh mpa rêh tĭng nâm ntil khân păng." Pô ri, nau nây jêng ro. 25Brah Ndu njêng mpa bri ta neh ntu tĭng nâm ntil khân păng, jêh ri mpô mpa rong tĭng nâm ntil khân păng, jêh ri lĕ rngôch mpô mpa vơr ta neh tĭng nâm ntil khân păng. Brah Ndu saơ nau nây jêng ueh.
26Dôl nây Brah Ndu lah: "Ăn he njêng bunuyh tĭng nâm rup he, tâm ban ma he nơm; jêh ri ăn khân păng chiă uănh ka tâm dak mƀŭt, sĭm ta kalơ trôk, mpô mpa rong lam bri neh, jêh ri lĕ rngôch mpa vơr ta neh ntu."
27Pô ri Brah Ndu rhăk njêng bunuyh tĭng nâm rup păng nơm; păng njêng kơt nâm rup Brah Ndu nơm. Păng njêng bu ur bu klâu. 28Brah Ndu mât ton nau ueh uĭn ma khân păng, jêh ri lah: "Khân ay may geh kon ăn bĭk ăn rơ̆, ăn bêng neh ntu, jêh ri ăn khân ay may jêng Kôranh ma neh ntu; ăn khân ay may chiă uănh ka tâm dak mƀŭt, sĭm ta kalơ trôk, jêh ri lĕ rngôch mpô mpa rêh nsong, mpât ta neh ntu." 29Brah Ndu lah: "Aơ, gâp ăn jêh ma ay may lam bri neh lĕ rngôch trau geh ntil jêh ri lĕ rngôch tơm si geh play ma ntil, ndơ nây mra jêng ndơ khân may sông sa. 30Ma lĕ rngôch mpô mpa ta neh ntu, ma lĕ sĭm tâm trôk, ma lĕ rngôch mpô mpa vơr ta kalơ neh ntu, ma lĕ mpa geh suh n'hâm nau rêh, gâp ăn jêh lĕ rngôch trau rêh nse jêng ndơ khân păng sa." Pô ri nau nây jêng ro. 31Brah Ndu saơ lĕ rngôch ndơ păng njêng jêh, jêh ri aơ, khân păng jêng ueh ngăn. Geh mhaơ jêh ri geh ôi jêng nar tal prau.

1

Sáng Tạo Trời Ðất

1Ban đầu Ðức Chúa Trời dựng nên trời và đất. 2Thuở ấy đất hoang vắng và trống không. Bóng tối bao phủ trên mặt vực thẳm. Thần của Ðức Chúa Trời vận hành trên mặt nước.
3Ðức Chúa Trời phán, “Phải có ánh sáng,” thì có ánh sáng. 4Ðức Chúa Trời thấy ánh sáng là tốt đẹp. Ðức Chúa Trời phân rẽ giữa ánh sáng và bóng tối. 5Ðức Chúa Trời gọi ánh sáng là ngày và bóng tối là đêm. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ nhất.
6Ðức Chúa Trời phán, “Phải có bầu trời ở giữa nước; hãy để nó phân cách nước với nước.” 7Vậy Ðức Chúa Trời tạo dựng bầu trời và phân cách nước ở dưới bầu trời với nước ở trên bầu trời, thì có như vậy. 8Ðức Chúa Trời gọi bầu trời là không trung. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ nhì.
9Ðức Chúa Trời phán, “Nước ở dưới không trung phải tụ lại một chỗ, và phải có đất khô xuất hiện,” thì có như vậy. 10Ðức Chúa Trời gọi nơi khô cạn là đất và nơi nước tụ lại là biển. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.
11Ðức Chúa Trời lại phán, “Ðất phải sinh thảo mộc; cây cỏ phải có hạt giống, cây ra trái phải sinh trái có hạt giống tùy theo loại trên mặt đất,” thì có như vậy. 12Ðất sinh thảo mộc: cây cỏ đều có hạt giống tùy theo loại, và cây ra trái đều sinh trái có hạt giống tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 13Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ ba.
14Ðức Chúa Trời phán, “Phải có các vì sáng trên không trung trong bầu trời để phân rẽ ngày và đêm; chúng phải trở thành những dấu hiệu để quy định mùa, ngày, và năm; 15chúng phải trở thành những vì sáng trong bầu trời để soi sáng trái đất,” thì có như vậy. 16Ðức Chúa Trời tạo dựng hai vì sáng lớn; vì sáng lớn hơn ngự trị ban ngày, vì sáng nhỏ hơn ngự trị ban đêm. Ngài cũng dựng nên các vì sao. 17Ðức Chúa Trời đặt chúng trên không trung trong bầu trời để soi sáng trái đất, 18để ngự trị ban ngày và ban đêm, và để phân rẽ ánh sáng và bóng tối. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 19Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ tư.
20Ðức Chúa Trời phán, “Nước phải có đầy các sinh vật; trên mặt đất phải có chim bay trên không trung trong bầu trời.” 21Vậy Ðức Chúa Trời tạo dựng các thủy long, các sinh vật di động và sinh sản trong nước tùy theo loại, và các loài chim có cánh tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp. 22Ðức Chúa Trời ban phước cho chúng rằng, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm đầy dẫy trong nước các đại dương; các chim chóc cũng hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều trên đất.” 23Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ năm.
24Ðức Chúa Trời phán, “Ðất phải sinh các sinh vật tùy theo loại; các súc vật, các sinh vật bò sát mặt đất, và các thú rừng trên đất tùy theo loại,” thì có như vậy. 25Ðức Chúa Trời dựng nên các thú rừng trên đất tùy theo loại, các súc vật tùy theo loại, và mọi sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại. Ðức Chúa Trời thấy điều đó là tốt đẹp.
26Ðức Chúa Trời phán, “Chúng Ta hãy dựng nên loài người theo hình ảnh Chúng Ta, và theo hình dạng Chúng Ta, để chúng quản trị các cá biển, các chim trời, các súc vật, các thú rừng trên đất, và mọi sinh vật bò sát mặt đất.” 27Vậy Ðức Chúa Trời dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài. Ngài dựng nên loài người theo hình ảnh Ðức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam và người nữ. 28Ðức Chúa Trời ban phước cho họ. Ngài phán với họ, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều, hãy làm cho loài người đầy dẫy khắp đất, và hãy chế ngự nó. Hãy quản trị cá biển, chim trời, và mọi sinh vật di động trên đất.” 29Ðức Chúa Trời phán, “Nầy, Ta ban cho các ngươi mọi thứ thảo mộc có hạt giống trên mặt đất, mọi thứ cây ra trái và có hạt giống; các ngươi sẽ dùng chúng làm thức ăn. 30Còn mọi thú vật trên đất, mọi loài chim trên trời, và mọi sinh vật bò sát mặt đất, tức mọi loài có sinh khí, Ta ban cho chúng mọi thứ cây cỏ xanh tươi làm thức ăn,” thì có như vậy. 31Ðức Chúa Trời thấy mọi việc Ngài đã làm đều rất tốt đẹp. Vậy có hoàng hôn và bình minh – ngày thứ sáu.