3

Cov tuabneeg kws tshuav nyob huv lub tebchaws

1Nuav yog cov tuabneeg kws Yawmsaub tseg ca tshuav nyob sub txhad tau swm txhua tug Yixayee kws tsw tau txeev paub ua rog huv Khana‑aa. 2Yawmsaub ua le nuav tsuas yog xaav qha kev ua rog rua cov Yixayee txhua tam kws tsw tau txeev paub ua rog dua. 3Yog tshuav cov Filixatee tswb tug vaajntxwv, hab cov Khana‑aa huvsw hab cov Xaintoo hab cov Hivai kws nyob sau lub roob Lenpanoo txwj ntawm lub roob Npa‑aa Hawmoo moog txug txujkev kws moog rua huv lub moos Hama. 4Cov tuabneeg nuav tshuav nyob lug swm cov Yixayee sub txhad paub tas cov Yixayee yuav noog Yawmsaub tej lug nkaw kws Yawmsaub tub kuas Mauxe has rua puab tej laug los tsw noog. 5Yog le nuav cov Yixayee txhad nyob txuam rua huv cov Khana‑aa, cov Hithai, cov Amaulai, cov Pelixai, cov Hivai hab cov Yenpu. 6Puab moog yuav cov tuabneeg hov tej ntxhais ua quaspuj hab muab puab tej ntxhais qua rua cov tuabneeg hov tej tub, hab ua koom rua puab tej daab.

Auni‑ee

7Cov Yixayee ua tej kws Yawmsaub pum tas phem kawg le. Puab tsw ncu Yawmsaub kws yog puab tug Vaajtswv lawm, puab moog teev tej daab Npa‑aa hab tej daab Asela. 8Vem le hov Yawmsaub txujkev npau tawg txhad tshwm plawg rua cov Yixayee, Yawmsaub txhad muab puab tso rua Kusaa Lisatha‑i kws yog Alaa Nahala‑i tebchaws tug vaajntxwv. Cov Yixayee txhad le zwm rua Kusaa Lisatha‑i tau yim xyoo. 9Mas thaus cov Yixayee quaj thov Yawmsaub mas Yawmsaub txhad tsaa kuas muaj ib tug paab cov Yixayee, yog Khalej tug kwv Khena tug tub Auni‑ee kws paab puab dim. 10Yawmsaub tug Ntsuj Plig txhad lug kaav nwg lub sab hab nwg ua thawj kaav cov Yixayee hab nwg tawm moog ua rog. Mas Yawmsaub muab Alaa Nahala‑i tug vaajntxwv Kusaa Lisatha‑i rua huv nwg txhais teg, nwg txhad kov yeej Kusaa Lisatha‑i. 11Ua le nuav lub tebchaws txhad le su tsw ua rog tau plaub caug xyoo. Mas Khena tug tub Auni‑ee txawm tuag lawm.

Ehuj

12Cov Yixayee rov ua tej kws Yawmsaub pum tas phem kawg le, Yawmsaub txhad cuab cov Mau‑a tug vaajntxwv Eloos zug ntaus cov Yixayee, vem yog puab tub ua tej kws Yawmsaub pum tas phem kawg le. 13Eloos txhad hu cov Aamoo hab cov Amalej tuaj ua ke moog ntaus yeej cov Yixayee hab txeeb tau lub moos toov laaj. 14Cov Yixayee txhad le zwm rua Mau‑a tug vaajntxwv Eloos tau kaum yim xyoo.
15Thaus cov Yixayee quaj thov Yawmsaub mas Yawmsaub kuj tsaa muaj ib tug lug paab puab, yog Kela tug tub Ehuj, yog xeem Npeeyamee, yog ib tug txhum phem. Cov Yixayee muab se rua nwg xaa moog rua Mau‑a tug vaajntxwv Eloos. 16Ehuj ntaus ib raab ntaaj ob saab ntse ntev ib tshwm coj nrug cev muab ntxwg lawv saab ncej qaab xws rua huv lub rwg. 17Nwg txawm coj se moog cev rua Mau‑a tug vaajntxwv Eloos. Eloos yog ib tug rog rog heev. 18Thaus Ehuj muab cov se cob taag lawm tes nwg txawm kuas cov kws kwv cov se hov rov qaab. 19Mas nwg tig rov qaab ntawm cov txoov daab pob zeb kws puab txaug kws nyob ze Kilakaa rov lug has tas, “Au Vaajntxwv, kuv muaj ib lu lug kws kuv yuav has rua koj tuab leeg paub xwb.” Vaajntxwv txhad has kuas nyob tuabywv. Tes vaajntxwv cov tub teg tub taw txhad tawm moog lawm. 20Mas Ehuj nkaag moog cuag vaajntxwv rua thaus kws vaajntxwv tuab leeg nyob tsawg txheej sau huv nwg chaav kws laaj kham. Mas Ehuj has tas, “Kuv muaj Vaajtswv tej lug kws kuv yuav has rua koj.” Tes vaajntxwv txawm sawv tseeg. 21Ehuj txhad xuas txhais teg phem rhu hlo ntaaj huv saab ceg xws nkaug kag Eloos plaab. 22Raab ntaaj pluj plag taag nrho tug ku, tej paav yawj foob nkaus raab ntaaj. Nwg kuj tsw rhu raab ntaaj huv Eloos lub plaab lug, tej quav zwg tawm lug xwb. 23Tes Ehuj txawm tawm rua nrau qaab khaav, nwg muab chaav tsev txheej sau qhov rooj kaw hab muab ntsug phoo ntsug ca.
24Thaus Ehuj moog lawd vaajntxwv cov tub teg tub taw lug saib mas pum tas chaav tsev txheej sau lub qhov rooj muab ntsug phoo ntsug lawm, puab kuj xaav tas “Nyab vaajntxwv moog plhob saab rua lub tsev dej huv chaav laaj kham lawm.” 25Puab tog ntev xeeb txob lawm. Thaus nwg tseed tsw qheb qhov rooj txheej sau le, puab txhad muab yuam swj lug qheb na cav puab tug vaajntxwv tub tuag xyaab leeg sau lawj.
26Thaus kws puab tseed tog tog hov Ehuj tub tswv dhau ntawm cov txoov daab pob zeb tub moog txug Xe‑ila lawm. 27Thaus nwg lug txug nwg txhad tshuab raaj kub yaaj huv tebchaws toj sab Efa‑i, mas cov Yixayee kuj nrug nwg nqeg peg toj sab moog, nwg coj puab kev. 28Nwg has rua puab tas, “Ca le lawv kuv qaab tsua qhov Yawmsaub tub muab mej cov yeeb ncuab kws yog cov Mau‑a rua huv mej txhais teg lawm.” Puab txhad nrug nwg nqeg moog txeeb tau tej chaw kws hlaa tau dej Yalatee, thaiv cov Mau‑a kev tsw pub ib tug hlaa tau le. 29Zag hov puab tua cov Mau‑a tuag kwvlaam ib vaam leej yog cov kws khov swm hab muaj zug huvsw, tsw muaj ib tug tswv dim le. 30Cov Mau‑a txhad swb hab zwm rua cov Yixayee nub hov. Mas lub tebchaws txhad su tsw ua rog tau yim caum xyoo.

Saaka

31Dhau Ehuj lawm mas muaj Anav tug tub Saaka. Nwg xuas tug muv lawv nyuj tua cov Filixatee tuag rau pua leej. Nwg kuj paab cov Yixayee dim hab.

3

1 Nầy là các dân tộc mà Đức Giê-hô-va để còn lại, đặng dùng chúng nó thử thách người Y-sơ-ra-ên nào chưa từng thấy những chiến trận Ca-na-an. --- 2 Ngài chỉ muốn thử thách các dòng dõi mới của dân Y-sơ-ra-ên, tập cho chúng nó việc chiến trận, nhứt là những kẻ chưa từng thấy chiến trận khi trước. --- 3 Các dân tộc nầy là dân Phi-li-tin cùng năm vua chúng nó, hết thảy dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít ở tại núi Li-ban, từ núi Ba-anh-Hẹt-môn cho đến cửa Ha-mát. 4 Đức Giê-hô-va dùng các dân tộc nầy để thử thách Y-sơ-ra-ên, đặng xem thử chúng nó có ý vâng theo các điều răn mà Ngài cậy Môi-se truyền cho tổ phụ chúng nó chăng. 5 Như vậy, dân Y-sơ-ra-ên ở chung cùng dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít, 6 cưới con gái của chúng nó làm vợ, gả con gái mình cho con trai chúng nó, và hầu việc các thần của chúng nó.

Sử ký các quan xét

(Từ 3:7 đến đoạn 16)

Ốt-ni-ên, Ê-hút và Sam-ga, quan xét của Y-sơ-ra-ên

7 Dân Y-sơ-ra-ên còn làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va, quên Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, cúng thờ các hình tượng Ba-anh và A-sê-ra. 8 Vì vậy, cơn thạnh nộ của Đức Giê-hô-va nổi phừng cùng Y-sơ-ra-ên, Ngài phó chúng vào tay Cu-san-Ri-sa-tha-im, vua nước Mê-sô-bô-ta-mi. Dân Y-sơ-ra-ên bị tám năm phục dịch vua Cu-san-Ri-sa-tha-im. 9 Kế ấy, dân Y-sơ-ra-ên kêu la cùng Đức Giê-hô-va; Đức Giê-hô-va bèn dấy lên cho chúng nó một người giải cứu, là Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em thứ của Ca-lép, và người ấy giải cứu họ. 10 Thần của Đức Giê-hô-va cảm động người, người đoán xét Y-sơ-ra-ên, và đi ra chiến trận. Đức Giê-hô-va phó Cu-san-Ri-sa-tha-im, vua A-ram, vào tay người, khiến cho người thắng Cu-san-Ri-sa-tha-im. 11 Xứ được hòa bình trong bốn mươi năm; kế đó, Ốt-ni-ên, con trai Kê-na, qua đời.
12 Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt Đức Giê-hô-va; nên Đức Giê-hô-va khiến Éc-lôn, vua Mô-áp, trở nên cường thạnh để hãm đánh Y-sơ-ra-ên. 13 Vậy, Éc-lôn nhóm hiệp chung quanh mình dân Am-môn và dân A-ma-léc, kéo đi đánh Y-sơ-ra-ên, và chiếm lấy thành Cây Chà là. 14 Dân Y-sơ-ra-ên bị phục dịch Éc-lôn, vua Mô-áp, trong mười tám năm.
15 Đoạn, dân Y-sơ-ra-ên kêu la cùng Đức Giê-hô-va, Đức Giê-hô-va dấy lên cho chúng một đấng giải cứu, là Ê-hút, con trai Ghê-ra, thuộc về chi phái Bên-gia-min, là người có tật thuận tay tả. Dân Y-sơ-ra-ên sai người đem lễ cống cho Éc-lôn, vua Mô-áp.
16 Ê-hút tự làm lấy một cây gươm hai lưỡi, dài một thước, và đeo theo trong áo mình nơi háng hữu. 17 Vậy, người đem dâng lễ cống cho Éc-lôn, vua Mô-áp, là một người rất mập. 18 Khi dâng lễ cống rồi, bèn cho những kẻ đã đem lễ vật đến đi về. 19 Nhưng chánh người đến hầm lấy đá ở gần Ghinh-ganh, thì trở lại, nói rằng: Hỡi vua, tôi có một lời tâu kín cùng vua. Vua truyền: Hãy nín! Hết thảy những kẻ hầu cận vua bèn đi ra. 20 Bấy giờ, vua đương ngồi một mình nơi lầu mát; Ê-hút đến gần mà nói rằng: Tôi có một lời của Đức Chúa Trời tâu lại với vua. Éc-lôn vừa đứng dậy khỏi ngai; 21 Ê-hút bèn giơ tay tả ra rút gươm đeo ở phía hữu, mà đâm người nơi bụng. 22 Cán gươm cũng lút theo lưỡi, mỡ líp lại xung quanh lưỡi gươm; vì người không rút gươm ra khỏi bụng, nó thấu ra sau lưng. 23 Đoạn, Ê-hút lánh ra nơi hiên cửa, đóng các cửa lầu mát lại và gài chốt. 24 Khi Ê-hút đã đi ra khỏi, các đầy tớ đến xem, thấy các cửa lầu mát đều đóng gài chốt, thì nói với nhau rằng: Hoặc vua đi ngơi trong lầu mát chăng. 25 Chúng đợi rất lâu, đến đỗi hổ thẹn; song vì không thấy vua mở cửa phòng, bèn lấy chìa khóa và mở: Kìa thấy chúa mình đã chết, nằm sải trên đất.
26 Trong khi chúng trì hoãn, Ê-hút đã trốn qua khỏi các hầm đá, lánh đến Sê-ri-a. 27 Người vừa đến, bèn thổi kèn lên trong núi Ép-ra-im; dân Y-sơ-ra-ên đều cùng người xuống khỏi núi, và chính người đi ở đầu hết. 28 Ê-hút nói cùng chúng rằng: Hãy theo ta, vì Đức Giê-hô-va đã phó vào tay các ngươi dân Mô-áp, là kẻ thù nghịch các ngươi. Chúng đều theo người xuống chiếm cứ các chỗ cạn sông Giô-đanh, là đường đi đến Mô-áp, cấm không cho ai đi qua. 29 Vậy, trong lúc đó dân Y-sơ-ra-ên đánh giết chừng mười ngàn người Mô-áp, thảy đều là tay mạnh mẽ, can đảm, không một ai thoát khỏi được. 30 Trong ngày đó, dân Mô-áp bị phục dưới tay Y-sơ-ra-ên; xứ được hòa bình trong tám mươi năm.
31 Sau Ê-hút, có Sam-ga, con trai của A-nát. Người dùng một cây đót bò mà đánh giết sáu trăm người Phi-li-tin, và cũng giải cứu Y-sơ-ra-ên.