2

Klei Yêhôwa Kiă Kriê Tar Anôk Hŏng Klei Êđăp Ênang

(Mika 4:1-3)

1Klei Y-Êsai anak êkei Y-Amôt ƀuh djŏ kơ čar Yuđa leh anăn ƀuôn Yêrusalem.
  2 Hlăm ênuk knhal tuč
   čư̆ sang yang Yêhôwa arăng srăng mđĭ
  brei jing čŏng čư̆ dlông hĭn,
   leh anăn bi mđĭ ñu ti dlông jih jang kbuôn;
  leh anăn jih jang găp djuê mnuih srăng kluh nao kơ ñu.

   3Lu phung ƀuôn sang srăng hriê leh anăn lač,
  “Bơ bĕ, brei drei đĭ nao kơ čư̆ Yêhôwa,
   kơ sang Aê Diê phung Yakôp,
  čiăng kơ ñu bi hriăm êlan ñu kơ drei,
   leh anăn čiăng kơ drei dưi êbat hlăm êlan ñu.”
  Kyuadah klei bhiăn srăng kbiă mơ̆ng ƀuôn Siôn,
   leh anăn klei Yêhôwa blŭ srăng kbiă mơ̆ng ƀuôn Yêrusalem.
  4 Ñu srăng phat kđi phung găp djuê mnuih,
   leh anăn ñu srăng blŭ kđi kơ lu phung ƀuôn sang.
  Digơ̆ srăng tia đao gưm digơ̆ mjing kơ wăng kai,
   leh anăn kju digơ̆ mjing kơ mniă.
  Sa găp djuê mnuih amâo srăng lŏ suê̆ đao gưm ngă kơ găp djuê mkăn ôh,
   kăn digơ̆ srăng lŏ hriăm bi blah rei.

Klei Yêhôwa Phat Kđi kơ Phung Mgao

  5Ơ sang phung Yakôp, hriê bĕ,
   brei drei êbat hlăm klei mngač Yêhôwa.

  6Kyuadah ih hngah leh êlan phung ƀuôn sang ih, sang phung Yakôp.
   Kyuadah diñu bŏ hŏng phung mdian mơ̆ng čar Ngŏ,
  leh anăn ngă msĕ si phung mjâo phung Philistin,
   leh anăn diñu djă kngan hŏng phung tue amâo đăo ôh.
  7Čar diñu bŏ hŏng prăk leh anăn mah,
   amâo mâo knhal ôh kơ klei mdrŏng diñu.
  Čar diñu bŏ hŏng aseh,
   leh anăn êdeh aseh.
  8Čar diñu bŏ hŏng rup yang,
   diñu buôn kkuh kơ bruă kngan diñu pô ngă,
   mnơ̆ng kđiêng diñu pô mkra.
  9Phung điêt arăng srăng bi luč
   phung prŏng arăng srăng mdlưh.
   Đăm pap brei kơ diñu ôh.

  10 Mŭt bĕ hlăm boh tâo,
   leh anăn đuĕ dăp bĕ hlăm ƀruih lăn
  mơ̆ng klei Yêhôwa bi huĭ,
   leh anăn mơ̆ng klei ktlă klei guh kơang ñu.
  11Ală mnuih krưh arăng srăng mdlưh
   leh anăn arăng srăng bi luă gŭ phung mgao.
   Knŏng hjăn Yêhôwa srăng mâo klei bi mđĭ hlăm hruê anăn.

  12Kyuadah Yêhôwa kơ phung kahan bi kčah leh sa hruê
   ñu srăng ngă kơ jih phung mgao, kơ phung krưh,
   leh anăn diñu bi luă gŭ diñu pô;
  13ngă kơ jih jang kyâo sêdar mgao čar Liƀan,
   leh anăn kơ jih jang kyâo têrêbin ti čar Basan;
  14kơ jih jang čư̆ leh anăn kbuôn dlông;
  15kơ jih jang sang tum dlông,
   kơ jih jang mnư̆ mgang,
  16kơ jih jang kŭmpăn Tarsis,
   leh anăn kơ jih jang mnơ̆ng bi mơak kơ ală.
  17Arăng srăng bi luă gŭ phung krưh,
   leh anăn srăng mtrŭn phung mgao.
   Knŏng hjăn Yêhôwa srăng mâo klei bi mđĭ hlăm hruê anăn.
  18Rup yang srăng êgao tuč.

  19Phung mnuih srăng mŭt hlăm ƀăng čư̆ boh tâo
   leh anăn hlăm ƀăng ƀruih lăn
  čiăng tlaih mơ̆ng klei Yêhôwa bi huĭ
   leh anăn klei ktlă klei guh kơang ñu,
   tơdah ñu kgŭ čiăng êyuh lăn ala.
  20Hlăm hruê anăn phung mnuih srăng hwiê hĕ kơ kkuih leh anăn kơ knhuăr
   rup yang prăk leh anăn rup yang mah diñu,
   diñu ngă leh pioh kkuh mpŭ.
  21Diñu srăng mŭt hlăm ƀăng kđang boh tâo
   leh anăn hlăm anôk ƀlŭng hlăm boh tâo
  mơ̆ng klei Yêhôwa bi huĭ
   leh anăn mơ̆ng klei ktlă klei guh kơang ñu,
   tơdah ñu kgŭ čiăng êyuh lăn ala.

  22Đăm lŏ knang kơ mnuih pô knŏng thâo bi êwa ti ƀăng adŭng,
   kyuadah ya klei yuôm ñu jing?

2

Thủ Ðô Tương Lai của Thế Giới

1Ðây là sứ điệp mà I-sai-a con của A-mô đã thấy, liên quan đến Giu-đa và Giê-ru-sa-lem:
  2Trong những ngày đến,
  Núi của nhà CHÚA sẽ được lập làm núi chủ của tất cả các núi;
  Nó sẽ được tôn cao hơn tất cả các đồi;
  Mọi dân tộc sẽ kéo về đó.
  3Nhiều người sẽ đến và nói,
  “Hãy đến, chúng ta hãy đi lên núi của CHÚA,
  Ðến nhà Ðức Chúa Trời của Gia-cốp,
  Ðể Ngài dạy bảo chúng ta các đường lối Ngài,
  Hầu chúng ta bước đi trong các nẻo đường Ngài.”
  Vì luật pháp sẽ ra từ Si-ôn,
  Lời CHÚA sẽ xuất phát từ Giê-ru-sa-lem.
  4Ngài sẽ phán xét giữa các nước,
  Ngài sẽ phân xử giữa các dân;
  Bấy giờ người ta sẽ lấy gươm rèn thành lưỡi cày,
  Lấy giáo rèn thành lưỡi liềm;
  Nước nầy sẽ chẳng dấy gươm nghịch cùng nước khác,
  Người ta sẽ chẳng luyện tập để chuẩn bị chiến tranh.

Ngày của Chúa

  5Hỡi nhà Gia-cốp, hãy đến,
  Chúng ta hãy bước đi trong ánh sáng của CHÚA!
  6Vì Chúa đã lìa bỏ dân Ngài, nhà Gia-cốp;
  Vì ở giữa họ có đầy những mê tín dị đoan từ đông phương du nhập,
  Và những thầy bói như dân Phi-li-tin đang có;
  Họ kết giao với con cái của các dân ngoại.
  7Xứ sở họ có đầy bạc và vàng;
  Của cải trong các kho nhiều vô kể;
  Ðất nước họ có đầy chiến mã,
  Còn chiến xa thì vô số.
  8Xứ sở họ cũng đầy dẫy các thần tượng;
  Họ sụp xuống thờ lạy các tác phẩm do tay họ làm ra,
  Những thứ do ngón tay họ tạo dựng.
  9Như thế con người đã làm nhục chính mình;
  Loài người đã hạ thấp phẩm giá mình;
  Nên xin Ngài đừng tha thứ họ!

  10Hãy chui vào trong các hốc đá, và hãy ẩn mình trong bụi đất,
  Ðể tránh cơn đoán phạt kinh hoàng của CHÚA,
  Và tránh vinh quang toát ra từ uy nghi Ngài.
  11Con mắt kiêu căng của loài người sẽ bị hạ xuống;
  Sự kiêu ngạo của con người sẽ bị triệt hạ;
  Chỉ một mình CHÚA sẽ được tôn cao trong ngày ấy.
  12Vì CHÚA các đạo quân đã dành một ngày để sửa trị tất cả những gì kiêu căng và cao ngạo;
  Tất cả những gì tự cao tự đại sẽ bị hạ xuống.
  13Tất cả những cây bá hương cao ngất và ngạo nghễ ở Li-băng,
  Tất cả những cây sồi của Ba-san,
  14Tất cả những ngọn núi cao,
  Tất cả những đồi cả,
  15Tất cả những ngọn tháp cao,
  Tất cả những tường thành kiên cố,
  16Tất cả những tàu bè của Tạt-si,
  Và tất cả những thuyền to đẹp đẽ,
  17Và sự kiêu căng của loài người sẽ bị hạ xuống;
  Sự kiêu ngạo của con người sẽ bị biến ra thấp hèn.
  Chỉ một mình CHÚA sẽ được tôn cao trong ngày ấy.
  18Các thần tượng sẽ hoàn toàn bị biến mất.
  19Hãy chui vào các hang đá và các hầm hố dưới đất,
  Ðể tránh khỏi cơn đoán phạt kinh hoàng của CHÚA,
  Và tránh khỏi vinh quang toát ra từ uy nghiêm Ngài,
  Khi Ngài trỗi dậy gây kinh hoàng cho thế giới.
  20Trong ngày ấy, người ta sẽ ném cho chuột và cho dơi những tượng thần bằng bạc và bằng vàng của họ,
  Những tượng thần mà họ đã làm ra để thờ.
  21Họ sẽ chui vào các hang đá và vào các hốc núi,
  Ðể tránh cơn đoán phạt kinh hoàng của CHÚA,
  Và tránh vinh quang toát ra từ uy nghi Ngài
  Khi Ngài trỗi dậy làm thế giới kinh hoàng.

  22Hãy chấm dứt lòng tin cậy vào loài người,
  Là loài chỉ có hơi thở trong lỗ mũi,
  Vì loài người có ra gì chăng?