4Lawv tsis tau tiv kev mob kev nkees, lawv noj qab nyob zoo thiab lawv muaj zog npho 5lawv tsis tau tiv kev txomnyem li luag tej; thiab lawv tsis muaj kev ntxhov siab li luag lwm tus. 6Yog li ntawd, lawv thiaj li muab kev khavtheeb los coj ib yam li coj xauv, thiab muab kev nruj tsiv los hnav ib yam li hnav lub tsho ntev; 7lawv lub siab nthuav tej kev phem tawm tuaj, thiab lawv lub tswvyim npaj rawv ua kev phem kev qias. 8Lawv luag lwm tus plig thiab hais tej lus phem lus qias; lawv khavtheeb thiab tuav hauv tsimtxom luag. 9Lawv thuam Vajtswv tus uas nyob saum ntuj ceebtsheej thiab hais lus khavtheeb ntxhias yuam tej neeg ntiajteb no. 10Txawm yog Vajtswv haivneeg los cia li yuam kev nrog cov neeg ntawd lawm, thiab nyiam ntseeg lawv tej lus heev. 11Lawv hais tias, “Vajtswv yeej tsis paub li, tus uas muaj hwjchim loj kawg nkaus los yeej tsis paub zaj no li.” 12Cov neeg siab phem yeej los zoo li ntawd, lawv muaj txhua yam nplua mias lawm los lawv yimhuab xav muaj ntau ntxiv.
13Qhov uas kuv tswj kuv lub siab kom ua tau neeg zoo thiab tsis ua txhaum ntawd txawm tsis muaj nqis li los? 14Vajtswv, koj tau ua rau kuv tiv kev txomnyem tas hnub; thiab koj rau txim rau kuv txhua tagkis sawv ntxov.
15Yog kuv lam tau lam hais tej ntawd, ntshai kuv tsis coj lub neej zoo li koj haivneeg. 16Zaj no nyuaj kawg li, tiamsis kuv muab los xav txhij xav txhua saib zoo li cas, txawm yog li ntawd los kuv yeej tsis totaub 17mus txog thaum uas kuv mus rau hauv koj lub Tuamtsev. Thaum ntawd kuv mam paub tseeb txog tej uas yuav los raug cov neeg siab phem ntawd.
18Qhov tseemceeb, koj yuav cia lawv taug txojkev uas nplua nplua kom lawv ntog thiab puastsuaj mus. 19Tib ntsais muag xwb lawv cia li raug kev puastsuaj tas; thaum kawg lawv yuav poob mus rau txojkev txomnyem heev! 20Lawv lub neej zoo ib yam li neeg ua npau suav, thaum nws tsim los nws tsis nco qab txhua yam tas lawm; Tus TSWV, thaum koj sawv tsees los, cov neeg ntawd yuav ploj ntais mus.
21Thaum kuv chim thiab tu siab heev, 22kuv ruam ib yam li tus tsiaj, kuv yeej tsis totaub tej uas koj ua hlo li. 23Txawm yog li ntawd los kuv yeej nrog nraim koj nyob ua ke, thiab koj yeej tuav rawv kuv txhais tes. 24Koj tej lus qhuab ntuas niaj hnub coj kuv txoj haukev, thiab txog thaum kawg koj yuav los tos kuv mus thiab pub rau kuv tau ntsejmuag. 25Dhau koj lawm, tsis muaj lwm yam uas kuv xav tau nyob saum ntuj. Yog muaj koj lawm, kuv tsis ntshaw ib yam dabtsi hauv ntiajteb no li. 26Kuv lub zog thiab kuv lub siab qaug zog zuj zus lawm, tiamsis Vajtswv yog kuv lub zog, nws yog tus uas kuv ntshaw mus ibtxhis.
27Cov neeg uas tso koj tseg, yuav ploj mus tas; koj yuav ua kom cov neeg uas tsis muab siab npuab koj raug puastsuaj tas. 28Tiamsis kuv mas zoo siab kawg, vim kuv nyob ze Vajtswv; kuv muaj tus TSWV uas yog Vajtswv ua tus tsomkwm kuv, thiab kuv yuav qhia txhua yam uas nws ua rau sawvdaws paub!
73
(Bài 73-89)
TẬP THỨ BA
Cuối Ðời của Người Ngay Lành và Kẻ Gian Ác
Thơ của A-sáp
1Quả thật, Ðức Chúa Trời đối xử thật tốt với I-sơ-ra-ên, Và với những người có lòng trong sạch. 2Riêng tôi, suýt chút nữa chân tôi đã vấp ngã; Chỉ chút xíu nữa thôi, các bước tôi đã trợt rồi, 3Vì tôi đã ganh tức với kẻ kiêu ngạo, Khi tôi thấy kẻ gian ác được hưng thịnh,
4Bởi chúng chẳng ốm đau gì cả; Thân thể chúng cứ khỏe khoắn và mạnh lành. 5Chúng chẳng gặp khó khăn như bao nhiêu người khác; Chúng chẳng gặp tai họa như người ta. 6Vì thế chúng đã lấy kiêu ngạo làm dây chuyền đeo cổ, Lấy bạo tàn làm quần áo che thân. 7Mắt chúng chứa đầy những ý đồ thâm hiểm; Lòng dạ chúng toan tính những tội ác khôn lường. 8Chúng nhạo báng và nói những lời độc hại; Chúng ngang tàng hăm dọa đàn áp người ta. 9Miệng chúng luôn nói nghịch thiên thượng; Lưỡi chúng cứ khi dễ thế nhân.
10Ðã vậy mà nhiều người còn quay lại ca tụng chúng, Và cho rằng chúng chẳng có tội lỗi gì. 11Chúng nói rằng, “Ðức Chúa Trời làm sao biết được? Ðấng Tối Cao há thấu rõ được sao?” 12Hãy xem, không biết tại sao kẻ ác mà lại được như thế; Chúng luôn được thoải mái và của cải chúng cứ gia tăng. 13Phải chăng dầu tôi cứ giữ lòng mình trong sạch, Và rửa tay tôi trong vô tội, tôi cũng chỉ hoài công vô ích? 14Vì suốt ngày tôi như kẻ bị đánh đòn; Mỗi buổi sáng tôi như người bị sửa phạt.
15Nếu con nói rằng, “Con sẽ nói như vậy đó,” Kìa, con đã không trung thực với con cái của Ngài rồi. 16Khi con suy gẫm để cố am tường điều ấy, Con thấy đó thật là một vấn đề nan giải cho con, 17Cho đến khi con vào trong đền thánh của Ðức Chúa Trời, Bấy giờ con mới hiểu rõ được số phận cuối cùng của chúng. 18Quả thật, Ngài đã đặt chúng trong một nơi trơn trợt; Ngài để chúng ngã nhào hầu chúng bị diệt vong. 19Kìa, chúng bị hủy diệt trong khoảnh khắc; Tất cả bị đùa đi trong nỗi kinh hoàng. 20Chúa ôi, người ta đối với giấc mơ sau khi thức dậy thể nào, Khi trỗi dậy Ngài coi thường phù vinh của chúng cũng thể ấy.
21Khi lòng con cay đắng, Khi tự ái con bị tổn thương, 22Con trở nên quẫn trí và bướng bỉnh; Con chẳng khác gì một con vật vô ý thức trước mặt Ngài. 23Dầu vậy, con vẫn tiếp tục bám víu vào Ngài; Ngài nắm lấy tay phải con. 24Ngài dùng lời khuyên của Ngài dẫn dắt con; Sau đó Ngài đưa con vào nơi vinh hiển. 25Ở trên trời, con có ai ngoài Chúa? Còn dưới đất nầy, con không ước ao chi khác hơn Ngài. 26Dù thân xác con và lòng con có thể tàn tạ, Nhưng Ðức Chúa Trời vẫn là sức mạnh của lòng con và là phần của con mãi mãi.
27Thật vậy, những kẻ xa cách Ngài sẽ bị hư mất; Ngài tiêu diệt những kẻ bất trung đối với Ngài. 28Nhưng đối với con, được gần bên Ðức Chúa Trời ấy là phước hạnh; Con đã chọn CHÚA Hằng Hữu làm nơi ẩn náu của con, Ðể con có thể thuật lại mọi công việc của Ngài.