45

Anih Lŏn Jao Pơyơr Kơ Yahweh

1“ ‘Tơdang ƀing gih pơčram anih lŏn kiăng kơ jing lŏn kŏng ngăn, ƀing gih khŏm pơyơr bĕ kơ Yahweh sa črăn lŏn jing anih rơgoh hiam, anŭn jing duapluh-rơma-rơbâo haih rơyong laih anŭn duapluh-rơbâo haih tơda. Abih bang anih anŭn či jing hĭ rơgoh hiam yơh. 2Amăng črăn lŏn anŭn, rơma-rơtuh haih mơlă̱ jing pioh kơ anih sang yang, laih anŭn lŏn rơmapluh haih jum dar anih kơ sang yang anŭn jing anih kơ tơdron đang. 3Amăng anih lŏn rơgoh hiam anŭn, ih či pơkă duapluh-rơma-rơbâo haih rơyong hăng pluh-rơbâo haih tơda. Amăng anŭn či hơmâo sang yang, jing Anih Rơgoh Hiam Hloh yơh. 4Anŭn či jing črăn lŏn rơgoh hiam kơ ƀing khua ngă yang yơh, jing ƀing mă bruă amăng sang yang hăng jĕ mă bruă ƀơi anăp Yahweh. Anŭn či jing anih kơ sang dŏ gơñu wơ̆t hăng anih rơgoh hiam kơ sang yang mơ̆n. 5Anih anŭn hơmâo duapluh-rơma-rơbâo haih rơyong hăng pluh-rơbâo haih tơda či lŏm kơ ƀing Lêwi, jing ƀing mă bruă amăng sang yang, jing anih lŏn gơñu kơ plei pla kiăng kơ hơdip yơh.
6“ ‘Ƀing gih khŏm pha brơi bĕ amăng sa boh plei prŏng sa anih lŏn hơmâo rơma-rơbâo haih tơda hăng duapluh-rơma-rơbâo haih rơyong, hrŏm hăng črăn rơgoh hiam anŭn. Anih anŭn či lŏn kơ abih sang anŏ Israel yơh.
7“ ‘Pô khua moa či hơmâo anih lŏn laih anŭn rĭm guai lŏn ñu anŭn jing rai yua mơ̆ng anih rơgoh hiam hăng lŏn lŏm kơ plei prŏng anŭn yơh. Anih anŭn či rơhaih anăp nao pơ gah yŭ̱ mơ̆ng gah yŭ̱ laih anŭn anăp nao pơ gah ngŏ̱ mơ̆ng gah ngŏ̱, guai anŭn či đuaĭ mơ̆ng guai gah yŭ̱ truh pơ guai gah ngŏ̱ pơčring hăng sa anih lŏn amăng khul črăn kơnung djuai Israel. 8Anih anŭn yơh či jing anih lŏn pô khua anŭn amăng ƀing Israel. Laih anŭn ƀing khua moa Kâo ƀu či kơtư̆ juă ƀing ană plei Kâo dơ̆ng tah, samơ̆ či brơi sang anŏ Israel tŭ mă anih lŏn anŭn tui hăng kơnung djuai gơñu yơh.
9“ ‘Anai yơh jing tơlơi Khua Yang Yahweh pơhiăp: Ƀing gih hơmâo ngă soh lu biă mă laih yơh, Ơ ƀing khua moa Israel hơi! Hơngah lui hĭ bĕ tơlơi ƀrưh ƀai hăng tơlơi kơtư̆ juă gih laih anŭn ngă bĕ tơlơi djơ̆ tơpă. Anăm puh pơđuaĭ hĭ ƀing ană plei Kâo dơ̆ng tah, Khua Yang Yahweh pơhiăp laih. 10Ih khŏm yua bĕ gai kơnăng djơ̆, sa boh ephah tơpă laih anŭn sa boh bat djơ̆ mơ̆n kiăng kơ pơkă. 11Ephah hăng bat jing prŏng pơđơ̱r, bat anŭn jing sa črăn amăng pluh hômer laih anŭn ephah jing sa črăn amăng pluh hômer yơh. Hômer yơh jing gơnam pơkă djơ̆ hơnơ̆ng kơ abih dua gơnam pơkă anŭn. 12Sa sekel jing pơkơtraŏ duapluh gerah. Duapluh sekel kăl hăng duapluh-rơma sekel kăl hăng pluh-rơma sekel pơdơ̆ hăng sa mina yơh.

Khul Gơnam Pơyơr Laih Anŭn Khul Hrơi Phet

13“ ‘Anai yơh jing gơnam brơi pơyơr yom hơjăn kiăng kơ pơyơr kơ Yahweh: Sa črăn amăng năm ephah mơ̆ng rĭm hômer pơdai kơtor laih anŭn sa črăn amăng năm ephah mơ̆ng rĭm hômer pơdai kơtur. 14Črăn ia rơmuă ôliwơ, jing črăn ƀing gih khŏm pơyơr kơ Yahweh, anŭn jing sa črăn amăng pluh bat mơ̆ng rĭm kor. Sa kor jing pluh bat ƀôdah sa hômer, yuakơ pluh bat jing pơdơ̆ hăng sa hômer. 15Laih anŭn ăt mă bĕ rĭm sa drơi triu mơ̆ng rĭm tơpul triu hơmâo dua-rơtuh drơi mơ̆ng đang rơ̆k hiam ƀing Israel yơh. Anŭn yơh jing khul gơnam dưi yua kơ khul gơnam pơyơr pơdai, khul gơnam pơyơr čuh laih anŭn khul gơnam pơyơr pơgop pơlir kiăng kơ pơkra tơlơi pap brơi kơ ƀing ană plei, Khua Yang Yahweh pơhiăp laih. 16Abih bang ƀing ană plei amăng anih lŏn či pơyơr gơnam brơi pơyơr yom hơjăn anŭn kơ pô khua moa amăng Israel yua. 17Pô khua moa anŭn yơh grơ̆ng glăm bruă pha brơi khul gơnam pơyơr čuh, khul gơnam pơyơr pơdai laih anŭn khul gơnam pơyơr mơñum ƀơi khul tơlơi phet, khul Blan Phrâo laih anŭn khul hrơi Saƀat, anŭn jing abih bang khul tơlơi phet pơkơčah laih kơ sang anŏ Israel yơh. Ñu či pha brơi khul gơnam pơyơr tơlơi soh, khul gơnam pơyơr pơdai, khul gơnam pơyơr čuh laih anŭn khul gơnam pơyơr pơgop pơlir kiăng kơ pơkra tơlơi pap brơi kơ sang anŏ Israel.
18“ ‘Anai yơh jing tơlơi Khua Yang Yahweh pơhiăp: Amăng blan tal sa ƀơi hrơi tal sa, ih khŏm pơyơr sa drơi rơmô tơno hadơi laih anŭn pơrơgoh hĭ sang yang anŭn. 19Pô khua ngă yang khŏm mă ƀiă drah hlô gơnam pơyơr tơlơi soh kiăng kơ pơrơgoh anŭn hăng pik ƀơi khul tơmĕh bah amăng sang yang, ƀơi pă̱ akiăng asuĕk tal dưh gah ngŏ kơnưl laih anŭn ƀơi khul tơmĕh amăng ja̱ng wăl tơdron gah lăm. 20Ih khŏm ngă tui anŭn mơ̆n ƀơi hrơi tal tơjuh amăng blan anŭn kơ hlơi pô ngă soh ƀu pơrơ̆ng ƀôdah mơ̆ng tơlơi ƀu thâo hluh. Tui anŭn, ƀing gih khŏm pơkra tơlơi pap brơi kơ sang yang anŭn yơh.
21“ ‘Amăng blan tal sa ƀơi hrơi tal pluh-pă̱ ƀing gih khŏm djă̱ pioh Tơlơi Găn, jing tơlơi phet hơmâo amăng tơjuh hrơi, tơdang amăng hrơi phet anŭn ih khŏm ƀơ̆ng ƀañ tơpŭng ƀu hơmâo tơpơi yơh. 22Ƀơi hrơi anŭn pô khua moa anŭn khŏm pha brơi sa drơi rơmô tơno jing gơnam pơyơr tơlơi soh kơ ñu pô laih anŭn kơ abih bang ƀing ană plei amăng anih lŏn anŭn yơh. 23Rĭm hrơi amăng tơjuh hrơi Tơlơi Phet anŭn, ñu khŏm ba rai tơjuh drơi rơmô tơno hăng tơjuh drơi triu tơno ƀu hơmâo nam rơka jing gơnam pơyơr čuh kơ Yahweh, laih anŭn sa drơi bơbe tơno jing kơ gơnam pơyơr tơlơi soh. 24Ñu khŏm pha brơi gơnam pơyơr pơdai, anŭn jing sa ephah kơ rĭm rơmô tơno laih anŭn sa ephah kơ rĭm triu tơno, hrŏm hăng sa hin ia rơmuă ôliwơ kơ rĭm ephah anŭn.
25“ ‘Tơdang amăng tơjuh hrơi Phet anŭn, jing tơlơi phet čơdơ̆ng mơ̆ng blan tal tơjuh ƀơi hrơi tal pluh-rơma, ñu khŏm ba rai kar kaĭ mơ̆n kơ khul gơnam pơyơr tơlơi soh, khul gơnam pơyơr čuh, khul gơnam pơyơr pơdai laih anŭn ia rơmuă.

45

Khu Vực Biệt Riêng Ra Thánh

1“Khi các ngươi bắt thăm chia xứ để nhận làm sản nghiệp, các ngươi phải dành một khu vực và biệt riêng nó ra làm khu vực thánh cho CHÚA. Ðó là khu vực thánh cho cả nước. Chiều dài của nó sẽ là mười bốn ký-lô mét rưỡi, và chiều rộng của nó sẽ gần sáu ký-lô mét. Toàn thể khu vực đó sẽ là vùng đất thánh. 2Trong khu vực đó, một mảnh đất chiều dọc hai trăm chín mươi mét và chiều ngang hai trăm chín mươi mét sẽ được dùng để cất đền thánh, và chung quanh mảnh đất để cất đền thánh đó là một vòng đai đất trống, rộng chừng hai mươi chín mét . 3Như vậy khu vực ấy –ngươi phải đo một vùng đất dài mười bốn ký-lô mét rưỡi, và rộng gần sáu ký-lô mét – sẽ là vùng đất thánh và trong đó sẽ có nơi cực thánh. 4Vùng đất thánh ấy được dành cho các tư tế, những người phục vụ trong nơi thánh, những người sẽ đến gần để hầu việc CHÚA; đó sẽ là nơi để họ xây nhà ở và là nơi thánh để xây đền thánh. 5Một khu vực kế cận có chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi, và chiều rộng gần sáu ký-lô mét sẽ được dành cho người Lê-vi, những người làm việc ở đền thờ. Ðó là phần sở hữu của họ để làm các khu phố của họ. 6Các ngươi cũng sẽ dành một khu vực nữa kế cận khu vực thánh, có chiều rộng gần ba ký-lô mét và chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi để làm thành phố, hầu ai trong dân I-sơ-ra-ên cũng có thể đến sống ở đó.

Phần Ðất Dành cho Chính Quyền

7Nhà cầm quyền trong nước cũng sẽ được dành cho hai vùng đất. Hai vùng sẽ nằm dọc theo và giáp giới với khu vực thánh và khu vực thuộc thành phố. Ranh giới của vùng phía tây sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía tây, và ranh giới của vùng phía đông sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía đông. 8Hai vùng đất đó sẽ là phần sở hữu của kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên. Như thế những kẻ cầm quyền của Ta sẽ không áp bức dân Ta nữa, và chúng sẽ chia đất đai còn lại trong nước cho nhà I-sơ-ra-ên, theo từng chi tộc của chúng.”
9CHÚA Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi những kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên: Ðủ rồi! Hãy bỏ ngay hung tàn và bạo ngược. Hãy thi hành công lý và lẽ phải. Chớ cướp đoạt dân Ta nữa,” CHÚA Hằng Hữu phán.

Cân Lượng và Ðong Lường

10“Các ngươi phải dùng cái cân chính xác, dụng cụ để đong vật khô chính xác, và dụng cụ để đong chất lỏng chính xác. 11Dung lượng của ê-pha phải bằng với dung tích của bát. Một bát phải bằng một phần mười hô-me, và một ê-pha cũng bằng một phần mười hô-me. Hô-me sẽ là đơn vị đong lường làm chuẩn cho cả hai. 12Một sê-ken bằng hai mươi ghê-ra. Hai mươi sê-ken cộng hai mươi lăm sê-ken cộng mười lăm sê-ken bằng một mi-na cho các ngươi.

Các Của Lễ

13Ðây sẽ là của lễ mà các ngươi sẽ dâng: cứ mỗi hô-me lúa mì các ngươi sẽ lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng, và cứ mỗi hô-me lúa mạch các ngươi cũng lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng. 14Còn quy tắc về việc dâng dầu thì các ngươi sẽ dâng theo dung tích của bát. Cứ mỗi cô-rơ dầu các ngươi trích ra một phần mười của một bát mà dâng. Một cô-rơ bằng một hô-me hay bằng mười bát, vì mười bát là một hô-me. 15Còn về chiên, cứ mỗi đàn chiên có hai trăm con trong các đồng cỏ của I-sơ-ra-ên thì dâng một con.
 Ðó là quy luật về việc dâng các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an hầu chuộc tội cho những kẻ dâng,” CHÚA Hằng Hữu phán.
16“Mọi người trong nước sẽ góp phần với nhà cầm quyền I-sơ-ra-ên trong việc dâng hiến. 17Tuy nhiên nhà cầm quyền sẽ chịu trách nhiệm trong việc cung cấp các lễ vật cho các của lễ thiêu, các của lễ chay, và các của lễ quán trong các kỳ lễ hội, các ngày trăng mới, và các ngày Sa-bát, nói chung là tất cả các kỳ lễ hội của nhà I-sơ-ra-ên. Nhà cầm quyền sẽ cung cấp các của lễ chuộc tội, các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an để dâng lên chuộc tội cho nhà I-sơ-ra-ên.”

Các Ngày Lễ

18CHÚA Hằng Hữu phán thế nầy, “Ngày mồng một tháng Giêng, ngươi hãy bắt một con bò đực tơ không tì vết và cử hành nghi thức thanh tẩy đền thờ. 19Tư tế sẽ lấy một ít máu của con vật làm của lễ chuộc tội đem bôi trên các trụ cửa đền thờ, trên bốn góc của gờ bàn thờ, và trên các trụ ở cổng vào sân trong của khuôn viên đền thờ.
20Ngày bảy của tháng đó ngươi cũng sẽ làm như vậy cho những ai không cố ý mà phạm tội hoặc phạm tội mà không biết. Như thế ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ.
21Ngày mười bốn tháng Giêng, các ngươi sẽ giữ Lễ Vượt Qua, một kỳ lễ kéo dài bảy ngày. Trong thời gian đó các ngươi sẽ ăn bánh không men. 22Trong ngày đầu của kỳ lễ, người cầm quyền trong nước sẽ dâng một con bò đực tơ làm của lễ chuộc tội cho chính mình và cho toàn dân trong nước. 23Suốt kỳ lễ bảy ngày đó, mỗi ngày người cầm quyền trong nước sẽ cung cấp bảy con bò đực tơ và bảy con chiên đực không tì vết để làm của lễ thiêu dâng lên CHÚA, và một con dê đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 24Người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp một của lễ chay gồm hai mươi hai lít bột cho mỗi con bò đực tơ, hai mươi hai lít bột cho mỗi con chiên đực, và bốn lít dầu ô-liu cho hai con vật hiến tế đó.
25Trong kỳ lễ kéo dài bảy ngày, bắt đầu vào ngày mười lăm tháng Bảy mỗi năm, người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp các của lễ như vậy cho của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay, với số dầu cần thiết để dâng chung với mỗi lễ vật.”