43

Tơlơi Ang Yang Wơ̆t Glaĭ Pơ Sang Yang

1Giŏng anŭn, pô anŭn ba kâo nao pơ amăng ja̱ng anăp nao pơ gah ngŏ̱, 2laih anŭn kâo ƀuh tơlơi ang yang Ơi Adai Israel rai mơ̆ng gah ngŏ̱. Hiăp ñu kar hăng dơnai ia rô pơkrao laih anŭn kar hăng anih lŏn bă hăng tơlơi ang yang bơngač yơh. 3Tơlơi pơƀuh kâo ƀuh anŭn jing kar hăng tơlơi pơƀuh kâo hơmâo ƀuh laih tơdang pô anŭn rai pơrai hĭ plei prŏng anŭn kar hăng khul tơlơi pơƀuh kâo hơmâo ƀuh laih jĕ ƀơi Krong Kêbar, laih anŭn kâo akŭp trŭn ƀô̆ mơta kâo. 4Tơlơi ang yang Yahweh mŭt pơ sang yang mơ̆ng amăng ja̱ng anăp nao pơ gah ngŏ̱ yơh. 5Giŏng anŭn, Yang Bơngăt yŏng đĭ kâo hăng ba kâo mŭt nao pơ wăl tơdron gah lăm, laih anŭn tơlơi ang yang Yahweh pơbă hĭ sang yang anŭn.
6Tơdang pô anŭn dŏ dơ̆ng jĕ ƀơi kâo, kâo hơmư̆ mơnuih pơhiăp hăng kâo mơ̆ng gah lăm sang yang. 7Ñu laĭ tui anai, “Ơ ană mơnuih hơi, anai jing anih grê pơtao Kâo laih anŭn anih kơ kơđŭl tơkai Kâo yơh. Anŭn yơh jing anih Kâo či hơdip amăng ƀing Israel hlŏng lar. Sang anŏ Israel ƀu či pơgrĭ hĭ anăn rơgoh hiam Kâo dơ̆ng tah, anŭn jing ƀing gơñu wơ̆t hăng ƀing pơtao gơñu, hăng tơlơi rĭh răm gơñu laih anŭn khul rup trah đôč đač ƀing pơtao gơñu ƀơi khul anih glông pioh kơkuh pơpŭ yang rơba̱ng gơñu. 8Tơdang ƀing gơñu pioh khô̱ng bah amăng gơñu jĕ ƀơi khô̱ng bah amăng Kâo laih anŭn khul tơmĕh gơñu jĕ ƀơi khul tơmĕh Kâo, kơnơ̆ng hăng sa boh pơnăng đôč tŏng krah Kâo hăng ƀing gơñu, ƀing gơñu pơgrĭ hĭ laih anăn rơgoh hiam Kâo tơdang ƀing gơñu hơdip hơdơ̆ng hơƀak drak. Tui anŭn, kâo pơrai hĭ ƀing gơñu hăng tơlơi hil nač Kâo yơh. 9Ră anai, brơi kơ ƀing gơñu mă pơđuaĭ hĭ bĕ mơ̆ng Kâo tơlơi rĭh răm gơñu laih anŭn khul rup trah đôč đač ƀing pơtao gơñu, laih anŭn Kâo či hơdip amăng ƀing gơñu hlŏng lar yơh.
10“Ơ ană mơnuih hơi, pơruai bĕ sang yang kơ ƀing ană plei Israel, kiăng kơ ƀing gơñu dưi tŭ mlâo kơ khul tơlơi soh gơñu. Brơi bĕ kơ ƀing gơñu pơmĭn kơ hơdră anŭn, 11laih anŭn tơdah ƀing gơñu tŭ mlâo kơ abih bang tơlơi bruă ƀing gơñu hơmâo ngă laih, pơrơđah bĕ kơ ƀing gơñu rup pơhơmutu sang yang, anŭn jing khul hơdră pơdap, khul jơlan tơbiă hăng khul bah amăng mŭt sang anŭn yơh. Abih bang hơdră pơkra sang anŭn, abih bang khul tơlơi phiăn hăng khul tơlơi juăt sang anŭn yơh. Čih bĕ hơdôm tơlơi anŭn ƀơi anăp gơñu kiăng kơ ƀing gơñu dưi ngă tŏng ten tui hăng hơdră pơkra anŭn laih anŭn đuaĭ tui abih bang khul tơlơi phiăn kơ sang anŭn yơh.
12“Anai yơh jing tơlơi juăt sang yang: Abih bang anih jum dar ƀơi čư̆ anŭn či jing hĭ rơgoh hiam yơh. Anŭn yơh jing tơlơi juăt yang sang.

Kơnưl Ngă Yang

13“Anai yơh jing khul tơlơi pơkă kơ kơnưl ngă yang ăt hăng tơlơi pơkă haih glông mơ̆n, anŭn jing tơlơi pơkă sang yang yơh. Jăh kơnưl anŭn sa haih dơlăm laih anŭn sa haih tơda, ăt hơmâo sa boh bah sa păh tơngan jum dar jăh anŭn. Laih anŭn anai jing dơ̆ng glông kơnưl anŭn: 14Mơ̆ng jăh ƀơi tơnah truh ƀơi tal dưh gah yŭ, anŭn jing dua haih glông dơ̆ng hăng sa haih tơda, laih anŭn mơ̆ng tal dưh anet ƀiă truh pơ tal dưh prŏng ƀiă, anŭn jing pă̱ haih glông dơ̆ng hăng sa haih glông tơda. 15Atur tal dưh gah ngŏ kơnưl anŭn jing pă̱ haih glông dơ̆ng, pă̱ ƀĕ tơki dơ̆ng đĭ mơ̆ng atur anŭn. 16Atur kơnưl anŭn jing mơlă̱, pluh-dua haih glông dơ̆ng laih anŭn pluh-dua haih glông tơda. 17Tal dưh gah ngŏ ăt jing mơlă̱ mơ̆n, pluh-pă̱ haih rơyong hăng pluh-pă̱ haih tơda, hơmâo băh sămkrah haih laih anŭn jăh sa haih jum dar tal anŭn. Khul rơñan kơnưl anŭn anăp nao pơ gah ngŏ̱ yơh.”
18Giŏng anŭn, Ñu pơhiăp dơ̆ng hăng kâo tui anai, “Ơ ană mơnuih hơi, anai yơh jing tơlơi Khua Yang Yahweh pơhiăp: Anai yơh či jing khul tơlơi phiăn kiăng kơ ngă yang khul gơnam pơyơr čuh laih anŭn añăh drah ƀơi kơnưl tơdang arăng pơkra laih kơnưl anŭn tui anai: 19Ih khŏm prap pre bĕ sa drơi rơmô hadơi jing gơnam pơyơr tơlơi soh kiăng kơ pơrơgoh pơ ƀing khua ngă yang, jing ƀing Lêwi sang anŏ Zadôk, jing ƀing rai jĕ mă bruă ƀơi anăp Kâo, Khua Yang Yahweh, pơhiăp laih. 20Ih khŏm mă bĕ ƀiă drah hlô pơyơr anŭn hăng pik ƀơi pă̱ ƀĕ tơki kơnưl anŭn laih anŭn ƀơi pă̱ akiăng asuĕk tal dưh gah ngŏ wơ̆t hăng abih bang jum dar băh anŭn, kiăng kơ pơrơgoh hĭ kơnưl anŭn hăng pơkra tơlơi song mă brơi kơ kơnưl anŭn yơh. 21Ih khŏm mă sa drơi rơmô tơno hadơi pioh kơ gơnam pơyơr tơlơi soh kiăng kơ pơrơgoh hăng čuh hĭ amăng anih pơkơčah laih jing gah rơngiao kơ sang yang.
22“Ƀơi hrơi tal dua ih khŏm pơyơr sa drơi bơbe tơno ƀu hơmâo nam rơka hơget ôh jing sa gơnam pơyơr tơlơi soh kiăng kơ pơrơgoh, laih anŭn kơnưl či dưi rơgoh hĭ kar hăng hơmâo rơgoh laih hăng gơnam pơyơr rơmô tơno. 23Tơdang ih pơrơgoh hĭ kơnưl anŭn giŏng laih, ih khŏm pơyơr bĕ sa drơi rơmô tơno hadơi hăng sa drơi triu tơno, abih dua hlô anŭn ƀu hơmâo nam rơka hơget gĕt ôh. 24Ih khŏm ba rai bĕ hơdôm hlô anŭn kơ Yahweh laih anŭn ƀing khua ngă yang yơh či pruai hra ƀơi khul gơnam pơyơr anŭn hăng ngă yang pơyơr khul hlô anŭn jing gơnam pơyơr čuh hlo̱m kơ Yahweh yơh.
25“Amăng tơjuh hrơi ih khŏm pha brơi sa drơi bơbe tơno rĭm hrơi kơ gơnam pơyơr tơlơi soh kiăng kơ pơrơgoh yơh. Ih ăt pha brơi bĕ sa drơi rơmô tơno hadơi hăng sa drơi triu tơno mơ̆ng tơpul triu bơbe, jing khul hlô ƀu hơmâo nam rơka yơh. 26Amăng tơjuh hrơi ƀing khua ngă yang či pơkra tơlơi pap brơi kơ kơnưl hăng pơrơgoh hĭ. Tui anŭn, hơdôm gơnam anŭn či pioh kơ bruă pơyơr ngă yang yơh. 27Ƀơi hơnăl tuč kơ hơdôm hrơi anŭn, čơdơ̆ng mơ̆ng hrơi tal sapăn, ƀing khua ngă yang khŏm pơyơr khul gơnam pơyơr čuh hăng khul gơnam pơyơr pơgop pơlir yơh ƀơi kơnưl. Giŏng anŭn, Kâo či ju̱m ƀing gih yơh, Khua Yang Yahweh pơhiăp laih.”

43

Vinh Quang của Ðền Thờ

1Sau đó người ấy đem tôi đến cổng, cổng hướng về phía đông. 2Này, vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên từ hướng đông chiếu rạng. Âm thanh nghe như âm thanh của các dòng nước lớn, và mặt đất rạng ngời vinh quang của Ngài. 3Khải tượng tôi nhìn thấy giống như khải tượng tôi đã thấy khi Ngài đến hủy diệt thành, và giống như khải tượng tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. Bấy giờ tôi sấp mặt xuống đất. 4Ðang khi vinh quang của CHÚA từ cổng phía đông tiến vào đền thờ, 5Thần cất tôi lên và đem tôi vào sân trong, và này, vinh quang của CHÚA tràn ngập đền thờ.
6Trong khi người ấy đứng bên tôi, tôi nghe có tiếng từ trong đền thờ phán ra. 7Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, đây là nơi Ta đặt ngai Ta, nơi Ta đặt hai bàn chân Ta, nơi Ta ở giữa dân I-sơ-ra-ên mãi mãi. Nhà I-sơ-ra-ên, tức chúng và các vua của chúng, sẽ không làm ô danh thánh của Ta qua việc làm điếm và thờ xác chết các vua của chúng trong các đền miếu ở các nơi cao nữa. 8Khi chúng đặt ngạch cửa của chúng bên cạnh ngạch cửa của Ta, các cột cửa lăng tẩm của chúng kế bên các cột cửa đền của Ta, chỉ có một bức tường ngăn cách giữa Ta với chúng, chúng đã làm ô danh thánh của Ta bằng những việc gớm ghiếc chúng làm. Vì thế Ta phải tiêu diệt chúng trong cơn giận của Ta. 9Bây giờ, chúng khá dẹp bỏ khỏi Ta các thần tượng của chúng và xác chết các vua của chúng thì Ta sẽ ở giữa chúng mãi mãi.
10Về phần ngươi, hỡi con người, hãy mô tả đền thờ cho nhà I-sơ-ra-ên biết, hãy để chúng đo lấy mô hình, và hãy để chúng lấy làm xấu hổ về những tội lỗi của chúng. 11Khi chúng đã lấy làm hổ thẹn về những gì chúng đã làm, hãy tỏ cho chúng biết về đồ án của đền thờ, vị trí các phòng ốc, các lối ra và các lối vào, tức toàn thể kiểu mẫu của nó và tất cả các quy luật của nó. Ngươi hãy viết ra trước mắt chúng để chúng thấy toàn thể kiểu mẫu của đền thờ và mọi luật lệ của nó hầu chúng vâng giữ và làm theo toàn bộ kiểu mẫu và mọi quy luật của nó. 12Ðây là luật của đền thờ: toàn thể khu vực ở trên đỉnh núi và các vùng chung quanh sẽ là đất chí thánh. Ðó là luật của đền thờ.”

Bàn Thờ

13Ðây sẽ là kích thước của bàn thờ tính theo cây thước đặc biệt, mỗi cây thước đặc biệt dài bằng một cây thước thường cộng chiều rộng một bàn tay. Bệ của bàn thờ dày gần sáu tấc và rộng gần sáu tấc; gờ quanh bệ cao bằng chiều rộng của bàn tay. Sau đây là chiều cao của bàn thờ: 14Từ đế ở mặt đất cho đến gờ dưới, gần một mét hai, rộng gần sáu tấc; từ gờ nhỏ đến gờ lớn, hai mét ba, rộng gần sáu tấc. 15Bồn lửa của bàn thờ để thiêu lễ vật cao hai mét ba. Ở bốn góc của bồn lửa có bốn sừng nhô lên. 16Bồn lửa của bàn thờ có hình vuông, chiều dọc gần bảy mét và chiều ngang gần bảy mét. 17Cái đế cũng hình vuông, chiều dọc dài hơn tám mét, và chiều ngang dài hơn tám mét. Xung quanh đế có một cái gờ dày khoảng ba tấc, cao khoảng sáu tấc. Các bậc cấp bước lên bồn lửa nằm về hướng đông.
18Bấy giờ người ấy nói với tôi, “Hỡi con người, CHÚA Hằng Hữu phán thế nầy, ‘Ðây là những quy luật về bàn thờ: Trong ngày bàn thờ ấy được xây dựng để dâng của lễ thiêu ở trên nó và rắc máu trên nó, 19ngươi hãy cho các tư tế người Lê-vi thuộc dòng dõi của Xa-đốc, những kẻ được đến gần Ta để phục vụ Ta,” CHÚA Hằng Hữu phán, “một con bò đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 20Ngươi sẽ lấy một ít máu của nó và bôi trên bốn sừng của bàn thờ, trên bốn góc của đế bàn thờ, và trên cái gờ xung quanh bàn thờ. Như thế ngươi sẽ thanh tẩy nó và chuộc tội cho nó. 21Ngươi sẽ lấy con bò làm của lễ chuộc tội và đem thiêu nó ở một nơi được chỉ định trong khu vực đền thờ, nhưng ở bên ngoài khu vực thánh.
22Trong ngày thứ hai, ngươi sẽ dâng một con dê đực không tì vết làm của lễ chuộc tội, và làm nghi thức thanh tẩy bàn thờ giống như cách đã dùng con bò tơ để thanh tẩy bàn thờ. 23Khi ngươi đã thanh tẩy bàn thờ xong, ngươi sẽ dâng một con bò tơ đực không tì vết và một con chiên đực không tì vết bắt từ trong bầy. 24Khi ngươi dâng chúng trước mặt CHÚA, các tư tế sẽ rảy muối trên chúng, rồi dâng chúng làm của lễ thiêu lên CHÚA. 25Trong bảy ngày, mỗi ngày ngươi sẽ dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội; ngươi cũng sẽ dâng một con bò đực tơ và một con chiên đực bắt từ trong bầy, cả hai con đều không tì vết. 26Trong bảy ngày, chúng sẽ chuộc tội cho bàn thờ và thanh tẩy nó, và như thế chúng sẽ làm cho nó ra thánh. 27Khi những ngày ấy qua rồi, từ ngày thứ tám trở đi, các tư tế sẽ dâng trên bàn thờ các của lễ thiêu của các ngươi và các của lễ cầu an của các ngươi, rồi Ta sẽ chấp nhận các ngươi,’” CHÚA Hằng Hữu phán.