74

Klei Wah Lač Akâo kơ Klei Bi Mtlaih kơ Găp Djuê Israel

Klei Y-Asap mtô mjuăt.
  1Ơ Aê Diê, ya ngă ih lui hĕ hmei,
   ya ngă ih ngêñ kơ phung biăp hlăm kdrăn rơ̆k mda ih hlŏng lar?
  2Brei ih hdơr kơ phung ƀuôn sang ih ruah mơ̆ng mphŭn dô,
   phung ih bi tui leh čiăng mjing găp djuê ngăn dưn ih;
   brei ih hdơr kơ čư̆ Siôn, anôk ih dôk leh.
  3Êbat nao bĕ kơ anôk mâo klei rai hlŏng lar,
   phung roh bi rai leh jih hlăm adŭ doh jăk.
  4Phung roh ih ur driâo leh ti krah anôk doh jăk ih;
   diñu kă leh čhiăm gru diñu pô tinăn.
  5Diñu jing msĕ si phung yua jông druôm kyâo hlăm kmrơ̆ng.
  6Diñu bi mčah kyâo mâo rup krah hlăm sang yang,
   hŏng jông leh anăn kmŭt.
  7Diñu čuh leh adŭ doh jăk ih;
   diñu bi čhŏ leh anôk ih pioh kơ anăn ih.
  8Diñu lač hdơ̆ng diñu pô, drei srăng bi rai jih nguêč;
   diñu čuh leh jih jang anôk kkuh mpŭ kơ Aê Diê hlăm čar.
  9Hmei amâo lŏ ƀuh klei bi knăl ih dôk mbĭt hŏng hmei ôh,
   amâo lŏ mâo khua pô hưn êlâo ôh;
   kăn mâo rei pô hlăm phung hmei thâo dŭm boh sui klei anei srăng dôk.
  10Dŭm boh sui, Ơ Aê Diê, pô roh srăng mưč kơ ih?
   Pô roh srăng dlao wač anăn ih hlŏng lar mơ̆?
  11Ya ngă ih kñŭn hĕ kngan ih,
   ya ngă ih amâo yơr kngan hnuă bi rai diñu ôh?

  12Ƀiădah ih, Ơ Aê Diê Mtao kâo mơ̆ng ênuk đưm,
   dôk ngă klei bi mtlaih ti krah lăn ala.
  13 Ih mơh bi mbha leh êa ksĭ hŏng klei myang ih;
   ih bi mčah leh boh kŏ anak rai hlăm êa ksĭ.
  14 Ih mơh bi mčah leh boh kŏ lêwiathan;
   ih brei ñu jing mnơ̆ng ƀơ̆ng huă kơ hlô mnơ̆ng dôk hlăm kdrăn tač.
  15Ih mơh brei akŏ êa ƀlĕ leh anăn brei êa hnoh đoh;
   ih bi khuôt hĕ êa krông prŏng.
  16Hruê jing dŏ ih, wăt mlam jing dŏ ih mơh.
   Ih pô hrih boh mngač leh anăn yang hruê.
  17Ih bi kčah leh jih knông lăn ala;
   yan bhang leh anăn yan puih jing bruă ih ngă.

  18Brei ih hdơr kơ klei pô roh mưč leh ih, Ơ Yêhôwa,
   sa phung găp djuê mluk mgu blŭ mgao kơ anăn ih.
  19Đăm jao ôh klei hdĭp ktrâo ih kơ hlô dliê;
   đăm wơr bĭt nanao klei hdĭp phung ƀuôn sang ih knap mñai.
  20Brei ih hdơr kơ klei ih bi mguôp;
   kyuadah anôk mmăt hlăm lăn čar bŏ hŏng phung ƀai.
  21Đăm brei phung arăng ktư̆ juă hêñ ôh;
   brei pô knap leh anăn ƀun ƀin dưi bi mni kơ anăn ih.

  22Kgŭ bĕ ih, Ơ Aê Diê, mgang klei ih;
   brei ih hdơr kơ klei phung mluk mgu mưč kơ ih jih hruê.
  23Đăm wơr bĭt ôh asăp hao hao phung roh ih,
   klei phung bi kdơ̆ng hŏng ih bi rŭng nanao.

74

Thơ A-sáp Để Dạy Dỗ

  1Lạy Đức Chúa Trời, sao Ngài từ bỏ chúng tôi mãi mãi,
   Sao Ngài nổi giận cùng đàn chiên của đồng cỏ Ngài?
  2Xin nhớ lại dân Ngài, là dân Ngài đã mua chuộc từ ngàn xưa,
   Chi tộc đã được Ngài cứu chuộc, để làm cơ nghiệp của Ngài.
   Xin nhớ lại núi Si-ôn này, nơi Ngài đã ngự.
  3Xin hãy bước chân đến chỗ đổ nát hoàn toàn,
   Mà kẻ thù đã hủy phá tất cả trong đền thánh.
  4Các kẻ thù đã gầm thét giữa nơi thờ phượng Ngài,
   Chúng đã dựng cờ lên làm dấu hiệu.
  5Chúng nó giống như kẻ
   Giơ rìu lên chặt cây.
  6Rồi chúng dùng dao và búa đập bể
   Các trần gỗ chạm khắc.
  7Chúng lấy lửa thiêu hủy đền thánh Ngài đến tận đất,
   Chúng làm cho nơi danh Ngài ngự thành ô uế.
  8Chúng tự bảo trong lòng rằng: “Chúng ta sẽ đè bẹp.”
   Chúng thiêu đốt mọi nơi thờ phượng Đức Chúa Trời trên đất.
  9Chúng tôi không thấy dấu hiệu,
   Cũng không còn tiên tri nào;
   Không ai trong chúng tôi biết việc này kéo dài bao lâu nữa.
  10Lạy Đức Chúa Trời, kẻ thù sẽ chế giễu cho đến bao giờ?
   Kẻ nghịch sẽ nhục mạ danh Ngài mãi sao?
  11Sao Ngài rút tay lại, tức là tay phải Ngài?
   Xin hãy giang tay ra khỏi lòng và hủy diệt chúng.
  12Nhưng Đức Chúa Trời là vua của tôi từ ngàn xưa,
   Ngài thực hiện các sự giải cứu khắp trên đất.
  13Chính Ngài bởi quyền năng mình phân rẽ biển cả,
   Đập bể đầu quái vật dưới nước.
  14Chính Ngài chà nát đầu Lê-vi-a-than,
   Ban chúng làm đồ ăn cho dân trong sa mạc.
  15Chính Ngài khai nguồn, mở suối nước,
   Ngài làm khô cạn dòng sông đang chảy.
  16Ban ngày thuộc về Ngài, ban đêm cũng thuộc về Ngài.
   Ngài đã thiết lập mặt trời và các tinh tú.
  17Ngài phân định tất cả bờ cõi trên đất,
   Lập ra mùa hè, mùa đông.
  18Lạy CHÚA, xin nhớ điều này:
   Kẻ thù chế giễu, dân ngu dại sỉ vả danh Ngài.
  19Xin đừng trao mạng sống chim bồ câu của Chúa cho thú dữ;
   Xin đừng quên mạng sống những kẻ cùng khốn của Chúa đời đời.
  20Xin nhớ đến giao ước Ngài
   Vì những nơi tối tăm trong xứ đầy những sự bạo tàn.
  21Xin chớ để kẻ bị đàn áp chịu xấu hổ;
   Nguyện những kẻ khốn cùng và nghèo khổ ca tụng danh Ngài.
  22Lạy Đức Chúa Trời, xin hãy đứng lên, bênh vực cho lý do của Ngài.
   Xin nhớ rằng những kẻ ngu dại xúc phạm đến Ngài mỗi ngày.
  23Xin đừng quên tiếng của các kẻ thù Ngài,
   Là tiếng gầm thét không ngừng nổi lên chống lại Ngài.